Kinh phương chủ yếu đề cập đến các phương thuốc trong Thương hàn và Kim quỹ của Trọng Cảnh, là tích luỹ kinh nghiệm thực tế của y gia trên lâm sàng trước thời Hán, là đơn thuốc hiệu quả đã được thử nghiệm nhiều lần, đặc điểm của nó là phương tuỳ theo chứng mà lập thành, phối ngũ nghiêm ngặt, tổ hợp tinh luyện, gia giảm vừa phải. Cổ phương dùng hiện nay, phải linh hoạt ứng dụng trên từng người, trên lâm sàng nếu có phương chứng phù hợp, tự có thể biến thông ứng dụng với các loại bệnh ngoại cảm, nội thương, nếu như điều trị có hiệu quả, phương không thay đổi, nếu xả chứng tòng bệnh thì rất dễ ngộ nhận cho là cổ phương không thể điều trị bệnh ngày nay.
Để đương thang
Xem trong <Thương hàn luận>, Để đương thang có tác dụng công trục ứ huyết, chủ trị chứng súc huyết hạ tiêu, cùng với trưng hà tích tụ, tiểu phúc ngạnh mãn, táo cuồng, hoặc trầm mặc nhược si, hoặc thiện vong, tiểu tiện tự lợi hoặc sáp thống, mạch Trầm Kết, rêu trắng, lưỡi đỏ giáng hoặc tím. Dược vị lấy Thuỷ điệt, Mang trùng là thứ thuốc mặn đắng, phá ứ huyết; Đào nhân, Đại hoàng khổ hoạt, có tác dụng lợi tiết huyết nhiệt. Nay dùng điều trị thoái vị đĩa đệm cột sống thắt lưng rất hiệu quả, điều trị nhồi máu não cũng tốt, căn cứ ứng dụng là có biểu hiện ứ huyết trở trệ, biện chứng gia giảm, tức là biến thông theo từng cá thể
Y án thoát vị cột sống thắt lưng
Nam 54 tuổi, công nhân, khám ngày 9/5/2000 vì bệnh sử đau lưng nhiều năm, gần đây bệnh phát, nhập viện điều trị không hiệu quả, nay nghe người quen đến khám. Nằm không thể động đậy, đau không thể chịu được, không thể đứng trên 2 chân, tay bên trái không thể hoạt động, đông thống, ma mộc, ăn được, đại tiện hơi khô, rêu lưỡi vàng mỏng dính, chất lưỡi đỏ hơi tối, mạch Huyền. CT cột sống: thoát vị L3-L4, L4-L5, L5-S1, chưa có chèn ép tuỷ. Biện chứng: thấp nhiệt đàm ứ trở lạc, khí huyết sáp trệ.
Dùng Để đương thang gia giảm: Thục đại hoàng 5g, Đào nhân 10g, CHích thuỷ điệt 5g, Sơn giáp (bào-nướng) 10g, Trạch lan 15g, Chích toàn yết 5g, Chế nam tinh 10g, phiến Khương hoàng 10g, Xuyên tục đoạn 15g, Hoài ngưu tất 12g, Cốt toái bổ 10g, dùng 14 tễ.
Khám lần 2 ngày 23/5: eo lưng giảm đau, nhưng 2 chi dưới thũng trướng, đặc biệt là 2 cổ chân, “tả tiền tý-mặt trước cánh tay trái” càng nặng, ứ trở thuỷ đình. Dùng phương trên gia Mộc phòng kỷ 12g, Thiên tiên đằng 15g, Tằm sa 10g, Uy linh tiên 15g, Hoàng bá 10g, tăng Thục đại hoàng thành 10g, dùng 7 tễ.
Khám lần 3 ngày 30/5: cánh tay trái đã có thể hoạt động, đau đớn cũng giảm, nhưng còn tê dại, 2 chi dưới thũng trướng giảm, các chứng khác vẫn như cũ, rêu lưỡi vàng mỏng dính, chất tối, mạch Huyền, Dùng phương trên gia Thổ miết trùng 6g, dùng 7 tễ.
Khám lần 4 ngày 4/7: chân đã có thể đi lại từ từ, tay trái đã có thể vận động nhẹ nhàng, có khi chi thể đau nhức, đại tiện bình thường, ăn uống rất tốt, tinh thần chuyển tốt, rêu lưỡi vàng mỏng dính, chất đỏ hơi tối, mạch Tiểu Huyền. Dùng nguyên phương gia Lộ lộ thông 12g, dùng 14 tễ.
Khám lần 5 ngày 17/8: chân đã có thể tự do đi lại, tay trái cũng tự do chuyển động, 2 đầu gối còn đau nhức, rêu lưỡi và mạch như trên. Dùng phương trên bỏ Sơn giáp, gia Sinh kỳ 20g, Du tùng tiết 12g, dùng 14 tễ.
Xét: Thoát vị cột cống là bệnh thường gặp nhưng khó chữa, y án này biện chứng là thấp nhiệt đàm ứ trở lạc, khí huyết sáp trệ là đặc điểm của bệnh cơ, phương dùng Để đương thang gia vị, dùng Thục đại hoàng làm quân, dựa vào tính hoạt huyết hoá ứ để tán ứ trệ ở hạ bộ, như Lý Đông Viên nói: “Đaị hoàng chi khổ hàn, năng tẩu nhi bất thủ, tiết huyết bế dã”. Phối với Thuỷ điệt, Sơn giáp, Đào nhân, Hoài ngưu tất hạot huyết thông lạc chỉ thống, Nam tinh, Toàn yết để hoá ứ tán kết, thông lạc chỉ thống, Xuyên tục đoạn, Cốt toái bổ để bổ Can Thận, lại hành huyết mạch, cường cân cốt, Trạch lan hoạt huyết lợi thuỷ. Khám lần 2 các chứng trạng có hoãn giải, nhưng có biểu hiện chi dưới phù thũng, lại gia thêm Mộc phòng kỷ, Thiên tiên đằng, Tằm sa, Hoàng bá, Uy linh tiên điều lý khí huyết, thanh lợi thấp nhiệt. Khám lần 3 thì thêm Thổ miết trùng để gia tăng tác dụng hoạt huyết, cùng với Sơn giáp để thay cho Manh trùng, có hàm ý của Để đương thang, mà Thổ miết trùng còn là thứ thuốc chuyên dùng điều trị ứ huyết yêu thống. Khám lần 5 các chứng trạng đều cải thiện rõ, nên bỏ Sơn giáo là thuốc phá ứ, gia Sinh kỳ 20g, Du tùng tiết 12g để ích khí chỉ thống, cải thiện thêm sau đó. Tổng kết lại thì là dùng thuốc lấy thông làm chủ, thông tắc bất thống, cho nên dùng có hiệu quả.
Y án nhồi máu não
Nam 66 tuổi, khám ngày 29/10/1999 vì cao huyết áp nhiều năm, trúng phong tháng 6/1994, tháng 3/1995 phát chứng điên giản 1 lần, tháng 4/1996 lại tái phát 1 lần. Chụp CT thấy bán cầu não trái có nhiều ổ nhồi máu, bên phải có xuất huyết. Chứng biểu hiện đi đứng không vững, khó tự chủ, tay phải hoạt động kém, có khi chân phù, đại tiện can kết, huyết áp gần đây bị biến động không ổn định, reu vàng mỏng dính, chất lưỡi tối, mạch Tế Hoạt. Bệnh là Loại trúng phong, thuộc phong đàm ứ trở, khí huyết thất điều, Can Thận cùng hư.
Dùng Để đương thang gia giảm: Thục đại hoàng 5g, Sinh Dại hoàng 5g (cho sau), Đào nhân 10g, Thuỷ điệt 3g, Địa long 10g, Quỷ tiến vũ 12g, Đởm nam tinh 10g, Chích cương tằm 10g, Hi thiêm thảo 5g, Thạch hộc 12g, Sinh địa hoàng 15g, Hoài ngưu tất 10g, Tang kí sinh 15g, Tục đoạn 15g. Sau khi dùng 14 tễ, đại tiện thông sướng, nhưng tiểu tiện có khi mất khống chế, dùng phương trên gia Ích trí nhân 10g, Lộ lộ thông 10g. Sau khi dùng 1 tháng khám lại, gần đây đại tiện 3-4 ngày/ lần, nhưng tiểu tiện không thông sướng, khuỷ tay phải run, dùng nguyên phương tăng Sinh đại hoàng đến 10g, gia Chỉ thực sao 10g.
Sau 3 tháng điều trị, đại tiện thông sướng, cách ngày 1 lần, nhưng rêu lưỡi vàng dính, chất lưỡi tím, mạch Tế Hoạt. Phương dùng: Sinh đại hoàng 10g (cho sau), Đào nhân 10g, Chích thuỷ điệt 5g, Địa long 10g, Chích cương tằm 10g, Đởm nam tinh 10g, Quỷ tiến vũ 12g, Thạch hộc 12g, Hi thiêm thảo 12g, Hoài ngưu tất 12g, Xích thược 12g, Hồng hoa 6g, Trạch lan 15g, Trạch tả 15g, gia giảm dùng thuốc gần 1 năm, bệnh tình ổn định.
Tháng 2/2001 đi chụp CT lại: các chỗ nhồi máu não thu nhỏ lại. Chân bên phải đã có lực, nhưng còn tê dại, không chóng mặt, đại tiện lại bí, rêu lưỡi vàng dính, chất lưỡi đỏ tối, mạch Tiểu Huyền Hoạt. Chứng thuộc phong đàm ứ trở, trường phủ nhiệt kết, can thận cùng hư, thực chứng nhiều, hư chứng ít. Dùng Sinh đại hoàng 15g (cho sau), Mang tiêu 6g (hoà uống), Đào nhân 10g, Thuỷ điệt 5g, Địa long 10g, Hi thiêm thảo 15g, Hồng hoa 10g, Thạch hộc 12g, Ngưu tất 12g, Cương tằm 10g, Đởm nam tinh 10g, Ma hoàng 10g, sau 14 tễ, đại tiện thông sướng, nói chung là có chuyển biến tốt, do mỡ máu hơi cao, dùng phương trên gia thêm Sinh Sơn tra nhục 15g, Trạch tả 15g, Quyết minh tử 15g, tiếp tục dùng Bạch vi 15g, Trạch lan 15g, Sơn giáp 10g, hoạt huyết thông lạc, thanh nhiệt lương huyết, gia giảm sau nửa năm điều trị, chi thể vận động cải thiện hơn trước. Ngày 3/10 khám lại, các chứng trạng gần như bình thường, cho dùng thuốc gián đoán tiếp tục điều lý
Xét: tóm tắt lại thì bệnh nhân này nổi rõ “nhiệt, ứ, đàm, phong, hư”, đặc bệt là trường phủ ứ nhiệt khá là đột xuất, cho nên dùng Sinh đại hoàng, tăng liều từ 5g đến 15g, để thanh nhiệt tiêu ứ, bệnh tình ổn định, sau đó phối với Mang tiêu, là mang ý của phương Đào hạch thừa khí thang hỗ trợ Để đương thang tiết ứ nhiệt ở trong ruột, khiến khí huyết thượng nghịch được thuận giáng, mà bệnh điều trị được hiệu quả.
Bài viết trích từ Tạp chi Trung y dược Đại học Nam Kinh, kỳ 4 năm 2005 của tác giả Chu Trọng Anh
Đăng nhận xét