-->

Thương hàn chứng lục kinh đề cương


Thái dương kinh đề cương

Thái dương chi vi bệnh, mạch Phù, đầu hạng cường thống, nhi ố hàn

Thái dương bệnh, phát nhiệt, hãn xuất, ố ohong, mạch Phù giả, danh vi Trúng phong.

Thái dương bệnh, hoặc dĩ phát nhiệt, hoặc vị phát nhiệt, tất ố hàn, ắt ố hàn, thể thống, ẩu nghịch, mạch âm dương câu khẩn giả, danh viết Thương hàn. 

Bệnh hữu phát nhiệt ố hàn giả, phát ư dương dã, vô nhiệt ố hàn giả, phát ứ âm dã. Phát ư dương giả thất nhật dũ, phát ư âm giả lục nhật dũ. Dĩ nhật số thất, âm số lục dã. 

Bệnh hoạn thân đại nhiệt, phản dục đắc cận y giả, nhiệt tại bì phu, hàn tại cốt tuỷ dã. Thân đại nhiệt, phản bất dục cận y giả, hàn tại bì phu, nhiệt tại cốt tuỷ dã. Xét Thái dương dĩ hàn thuỷ chủ lệnh, ngoại tại bì phu, vệ phòng chu thân, vi lục kinh chi cương lĩnh, cố kì mạch Phù. 

Khi bị dính phong hàn thì lỗ chân lông đóng lại, kinh mạch bị bệnh trước tiên. Kinh mạch khởi từ trong 2 mắt, đi lên đầu vòng xuống gáy, đi xuống lưng dọc theo giáp tích cột sống, từ mắt cá chân mà đi đến ngón tay út. Phong hàn ngoại thúc mà kinh mạch không được thư thái, cho nên đầu gáy, eo lưng cột sống, cân cốt đau nhức, mạch này nối với Đốc mạch ở huyệt Phong Trì ở sau đầu, khi huyệt đạo khai mở, thương hàn làm tổn thương thân thể, đều là do xâm nhập qua huyệt Phong phủ, rồi truyền vào Thái dương. Doanh huyết trong kinh lạc, khí ở bì phu đều thuộc vào Thái dương. Phong thì thương vệ khí, hàn thì thương doanh huyết, doanh vệ bị thương thì Thái dương bị bệnh.

Xét Thái dương mà gốc bệnh là Trúng phong thì dùng Quế chi thang làm chủ.  Gốc bệnh là Thương hàn thì dùng Ma hoàng thang làm chủ. Phong hàn lưỡng cảm, dùng Quế chi Ma hoàng các bán thang, Quế chi nhị Ma hoàng nhất thang làm chủ. Trúng phong mà trong có uất hoả, dùng Đại thanh long thang, Quế chi nhị Việt tỳ nhất thang làm chủ. Thương hàn mà trong có thuỷ uất, dùng Tiểu thanh long thang làm chủ. Biểu đã giải mà vẫn còn nội táo, dùng Bạch hổ thang, Bạch hổ gia Nhân sâm thang làm chủ. Biểu chưa giải mà lý có thấp tà, dùng Ngũ linh tán, Phục linh Cam thảo thang làm chủ. Biểu đã giải mà nhiệt kết ở huyết phận thì dùng Đào hạch thừa khí thang, Để đương thang, Để đương hoàn làm chủ.

Thái dương kinh hoại bệnh đề cương

Thái dương bệnh tam nhật, dĩ phát hãn, nhược thổ, nhược hạ, nhược ôn châm, nãi bất giải giả, thử vi hoại bệnh, Quế chi bất trúng dữ dã. Hiện kì mạch chứng, tri phạm hà nghịch, tuỳ chứng trị chi. Bản phát hãn, nhi phục hạ chi, thử vi nghịch dã. Nhược tiên phát hãn, trị bất vi nghịch. Tiên bản hạ chi, nhi phục hãn chi vi nghịch. Nhược tiên hạ chi, trị bất vi nghịch. 

Xét tam dương bệnh qua 3 kinh dương là hết, nếu đã phát hãn, thổ, hạ, ôn châm mà bệnh vẫn không giải thì đó không phải là nhập vào Dương minh phủ mà là nhập vào Thái âm tạng, tức là Thái dương hoại bệnh. Có biểu hiện hạ lợi tiết tả, là do phép trị sai lầm mà thành. Dương thịnh mà vong âm là bệnh nhập vào phủ, âm thịnh mà vong dương mà bệnh nhập vào tạng. 

Tuy Thái dương biểu chứng chưa giải, nhưng không thể theo Thái dương bệnh để trị. Xét xét mối tương quan mạch chứng, biết chỗ sai lầm trước đó mà xem xét theo chứng thì vẫn có thể trị được. 

Xét Thái dương hoại bệnh, nếu: 

Nhập vào Dương minh: 

+ Biểu hàn chưa giải mà bên trong có hoả uất, dùng Ma Hạnh Thạch Cam thang chủ chi. 

+ Biểu giải mà bên trong có nội táo, dùng Nhân sâm Thạch cao thang chủ chi. Biểu giải mà lý nhiệt, dùng Điều vị thừa khí thang làm chủ. 

Nhập vào Thái âm: 

+ Biểu chưa giải mà lý có thấp tà, dùng Ngũ linh tán làm chủ. 

+ Biểu giải mà lý dương hư, dùng Cam thảo Can khương thang chủ chi. 

+ Biểu giải mà lý âm hư, dùng Thược dược Cam thảo thang chủ chi. 

+ Biểu chưa giải mà lý có hàn cấp, trước dùng Tứ nghịch thang làm chủ, sau dùng Quế chi thang làm chủ. 

+ Biểu chưa giải mà lý đã hư, dùng Quế chi gia Thược dược Sinh khương Nhân sâm tân gia thang chủ chi. 

+ Biểu chưa giải mà lý có nhiệt dùng Cát căn Cầm Liên thang làm chủ. 

+ Biểu chưa giải mà lý hàn, dùng Quế chi khứ Thược dược thang, Quế chi khứ Thược dược gia Phụ tử thang làm chủ

+ Biểu chưa giải mà lý thực, dùng Quế chi gia Hậu phác Hạnh tử thang làm chủ.

+ Biểu giải mà lý có thấp tà, dùng Quế chi khứ Quế gia Phục linh Bạch truật thang làm chủ.

+ Biểu hư mà lý thực, dùng Hậu phác Sinh khương Cam thảo Bán hạ Nhân sâm thang làm chủ.

+ Lý thực mà nôn, dùng Chi tử Hậu phác thang, Chi tử Can khương thang, Chi tử Hương thị thang, Chi tử Cam thảo thang, Chi tử Sinh khương thang, tuỳ chứng chủ chi.

Nhập vào Thiếu âm:

+  Biểu hư lậu hãn, dùng Quế chi gia Phục tử thang làm chủ.

+ Lý hư ố hàn, dùng Thược dược Cam thảo Phụ tử thang làm chủ.

+ Lý hàn có thấp tà, dùng Linh Quế Truật Cam thang làm chủ.

+ Lý hàn có thuỷ, dùng Chân vũ thang làm chủ. 

+ Lý hư vong dương, dùng Quế chi Cam thảo thang làm chủ.

+ Lý hàn dục tác Bôn đồn, dùng Quế chi gia Quế thang, Linh Quế Cam tháo thang làm chủ.

+ Lý hư vong dương kinh cuồng, dùng Quế chi khứ Thược dược gia Thục tất, Long cốt, Mẫu lệ thang làm chủ. 

+ Lý hư vong dương phiền táo, dùng Quế chi Cam thảo Long cốt Mẫu lệ thang làm chủ. 

+ Biểu giải mà lý dương hư, dùng Phục linh tứ nghịch thang, Can khương Phụ tử thang làm chủ.

Thái dương kinh hoại bệnh kết hung bĩ chứng đề cương

Bệnh phát ư dương, nhi phản hạ chi, nhiệt nhập nhân tác Kết hung. Bệnh phát ư âm, nhi phản hạ chi, nhân tác bĩ. Sở dĩ thành chứng Kết hung, là do dùng phép hạ quá sớm mà thành. 

Xét vệ khí là dương, phong thương vệ giả, bệnh phát ư dương dã. Vệ thương thì át bức doanh huyết mà sinh ra lý nhiệt, huyết hoá ư tạng, tạng âm suy giảm, đa truyền ư Dương minh chi phủ. Doanh huyết là âm, hàn thương doanh huyết tức là bệnh phát ở phần âm. Doanh thương thì thúc bế vệ khí mà sinh biểu hàn, khí hoá ở phủ, phủ dương yếu nhược, đa phần truyền vào Thái âm chi tạng. 

Bệnh phát ở dương, thì nhiệt tà truyền lý, đã nhập vào Vị phủ, không thể không công hạ, phương dùng tuỳ vào kinh mạch, pháp thích hợp để phát hãn, mà lại dùng công hạ, khiến biểu dương nội hãm, mà thành chứng Kết hung. 

Bệnh phát ở âm, nội hàn uất động, nhập vào Vị tạng, thuỷ chung cấm hạ. Phương dùng tuỳ mà kinh mạch, pháp trị đáng là phát hãn mà trái lại dùng phép hạ, khiến lý âm thượng nghịch, thì thành Bĩ chứng.

Thái dương chi bệnh không giải ở Kinh thái dương, mà bệnh truyền vào tạng phủ thì sẽ liên quan đến sống chết, đó đều thuộc vào Thái dương hoại bệnh. Nhưng nếu bệnh truyền nhập vào phủ thì dùng Thừa khí, nhập tạng thì dùng Tứ nghịch, đó đều là phép cứu hoại bệnh. Nhưng nếu bệnh chưa vào đến Vị phủ mà dùng phép hạ quá sớm thì sẽ thành Kết hung chứng, chưa nhập Tỳ tạng mà dùng nhầm công hạ thì thành Bĩ chứng, thì đã hoại bệnh lại còn hoại bệnh hơn. Trọng Cảnh biến hoá Thừa khí thành Hãm hung, biến Tứ nghịch thành Tả tâm, đều là cứu trị cái ``hoại trung chi hoại´´.

Xét Kết hung trọng chứng thì dùng Đại hãm hung thang, Đại hãm hung hoàn làm chủ. Nếu nhẹ thì dùng Tiểu hãm hung thang làm chủ. 

Xét Bĩ chứng nếu 

+ Biểu chứng chưa giải mà Lý đã hư thì dùng Quế chi Nhân sâm thang làm chủ. 

+ Biểu đã giải mà lý thực, trên có nhiệt thì dùng Đại hoàng Hoàng liên tả tâm thang làm chủ. 

+ Biểu đã giải mà lý thực, dưới có hàn, dùng Phụ tử tả tâm thang làm chủ. 

+ Biểu giải mà lý có thuỷ, dùng Thập táo thang làm chủ.

+ Biểu giải mà lý có hàn, có nhiệt, dùng Sinh khương tả tâm thang, Cam thảo tả tâm thang làm chủ.

+ Lý có thấp mà đại tiện táo, dùng Xích thạch chi Vũ dư lương thang làm chủ.

+ Lý có thấp mà thuỷ đình, dùng Ngũ linh tán làm chủ.

+ Biểu giải mà lý uất, dùng Toàn phúc hoa Đại giả thạch thang làm chủ.

+ Lý hàn mà có nôn, dùng Qua đê tán làm chủ. 

Dương minh kinh đề cương

Dương minh chi vi bệnh, Vị gia thực dã. Thương hàn tam nhật, Dương minh mạch Đại. Dương minh ngoại chứng, thân nhiệt, tự hãn xuất, bất ố hàn, phản ố nhiệt dã. Bệnh tuy mới mắc 1 ngày, ố hàn đã tự hết mà tự ra mồ hôi ố nhiệt. Dương minh cư ngụ ở trung thổ, nơi vạn vật quy tụ, ``vô sở phục truyền-không truyền tiếp đi đâu?´´. Khi mới mắc bệnh tuy cũng có ố hàn, nhưng chỉ sau 2 ngày thì tự hết, đó là Dương minh bệnh. Thương hàn phát nhiệt vô hãn, ẩu bất năng thực, nhi phản hãn xuất nhiên giả, thị truyền thuộc Dương minh dã. Có Thái dương Dương minh, có Chính dương dương minh, có Thiếu dương Dương minh. Thái dương Dương minh là chứng Tỳ ước. Chính dương Dương minh là Vị gia thực. Thiếu dương Dương minh là do đã phát hãn lợi tiểu tiện, khiến trong Vị táo phiền thực mà đại tiện khó. 

Thái dương bệnh nếu phát hãn, nếu hạ, nếu lợi tiểu tiện, thì sẽ vong tân dịch, trong Vị can táo, do đó mà truyền thuộc Dương minh, không muốn mặc áo, nội thực, đại tiện khó, đều gọi là Dương minh. 

Bản Thái dương bệnh, sơ đắc thời phát kì hãn, hãn tiên xuất bất triệt nhân truyền thuộc Dương minh dã. Bệnh hoạn phiền nhiệt, hãn xuất tắc giải, lại như Ngược trạng, nhật bô thời phát nhiệt, thuộc vào Dương minh.

Mạch thực, nên dùng phép hạ, mạch Phù Hư, nên phát hãn. 

Xét âm dương dựa theo táo kim hoá khí, kinh Dương minh, phân chia cơ nhục, bắt đầu từ ngã ba mũi, bao quanh môi miệng, đi mặt trước cơ thể, xuống dưới cơ hoành, ôm quanh rốn, dọc theo mặt ngoài xương chày, từ mắt cá chân ngoài đến ngón chân cái. Dương minh là ´´tam dương chi trường hoặc trưởng – ko biết nên dịch là bệnh của 3 tam dương kéo dài hay 3 dương phát triển mà thành´´, thái dương bệnh kinh không giải, doanh vệ nội uất, 2 ngày ắt sẽ truyền kinh Dương minh. Dương khí thịnh mãn, cho nên mạch Đại mà người nóng. Nếu phủ dương bẩm tố sung thực, thì tự bệnh từ kinh nhập vào phủ, biểu nhiệt lý truyền, dùng Quế chi Ma hoàng giải biểu, Thừa khí công lý. Trọng Cảnh lập ra phép trị Dương minh, là phép trị bệnh truyền nhập vào phủ, chứ không phải là chỉ giới hạn ở ngày thứ hai của Dương minh kinh bệnh. Xét Dương minh bệnh, nếu: 

+ Thái dương kinh chứng chưa trừ, Trúng phong thì dùng Quế chi thang làm chủ, Thương hàn thì dùng Ma hoàng thang làm chủ.

+ Thái dương chưa giải, mà có dấu hiệu sẽ nhập lý, dùng Quế chi gia Cát căn thang làm chủ.

+ Thái dương chưa giải, mà đã nhập vào Dương minh, dùng Cát căn thang làm chủ. 

+ Nhị dương biểu chưa giải, mà lý có uất, dùng Cát căn gia Bán hạ thang làm chủ. 

+ Biểu giải mà lý nhiệt, dùng Điều vị thừa khí thang làm chủ.

+ Biểu giải mà lý vi thực, dùng Tiểu thừa khí thang làm chủ.

+ Biểu giải mà lý  đại thực thì dùng Đại thừa khí thang làm chủ.

+ Lý thực mà tân dịch kiệt, dùng Mật tiễn đạo phương, Trư đởm chấp phương làm chủ. 

+ Lý thực mà Tỳ ước, dùng Ma nhân hoàn làm chủ.

+ Lý thực mà huyết ứ, dùng Để đương thang làm chủ.

Dương minh kinh hư chứng đề cương

Dương minh bệnh, nhược năng thực, dang Trúng phong; bất năng thực, danh Trúng hàn. Dương minh bệnh, nhược trúng hàn, bất năng thực, tiểu tiện bất lợi, thủ túc nhiên hãn xuất, thử dục tác cố hà, đại tiện sơ ngạnh hậu đường. Sở dĩ nhiên giả, Vị trung lãnh, thuỷ cốc bất biệt cố dã. Dương minh bệnh, bất năng thực, công kì nhiệt tất uyết. Sở dĩ nhiên giả, Vị trung hư lãnh cố dã. Vì người đó vốn hư yếu cho nên dùng phép công nhiệt sẽ khiến người đó „uyết“. Sở dĩ như vậy là do trong Vị hàn lãnh nên vậy. Thương hàn nôn nhiều, tuy có Dương minh chứng, cũng không thể công hạ. Dương minh bệnh, tâm hạ ngạnh mãn giả, không thể công hạ. Công thì lợi toại bất chỉ mà chết, lợi chỉ thì bệnh khỏi. 

Xét Dương minh và Thái âm là biểu lý, dương thịnh thì Dương minh nắm quyền, khiến Thái âm hoá táo, mà nhập Vị phủ. Âm thịnh thì Thái âm đáng lãnh, khiến Dương minh hoá thấp, mà truyền Tỳ tạng. Con người là thể khí bất nhất, có người Vị thực, có người Vị hư, Vị thự nhập phủ tắc táo nhiệt, thì nên thanh tiết. Vị hư truyền tạng thì thấp hàn, nên dùng ôn bổ. Chứng của Đại, Tiểu thừa khí thang là Vị thực; Chứng của Ngũ linh, Tứ nghịch là Vị hư. Thực là Dương minh bệnh, hư thì không phải là Dương minh bệnh mà thực ra là Thái âm bệnh. Người ta biết có chứng Vị thực nhưng không biết nó phục truyền, không biết Vị hư là đó biến động truyền nhập tam âm, truyền biến vô cùng. Tức là 3 phương Thừa khí thang, có thể cứu sống người có Vị thực, nhưng lại có thể giết chết người có Vị hư, không thể dùng lẫn lộn được. Xét Dương minh hư chứng mà: 

+ Lý hàn mà thuỷ thịnh, dùng Tứ nghịch thang làm chủ. 

+ Lý hàn mà thổ hư, dùng Ngô thù du thang làm chủ.

+ Lý có tích thấp, dùng Ngũ linh tán làm chủ.

+ Lý có hư nhiệt, dùng Chi tử thị thang, Bạch hổ gia Nhân sâm thang làm chủ.

+ Lý có thấp nhiệt, dùng Trư linh thang làm chủ

+ Lý có táo nhiệt, dùng Bạch hổ thang làm chủ

+ Lý có ứ nhiệt, dùng Nhân trần hao thang làm chủ.

Thiếu dương kinh đề cương

Thiếu dương chi vi bệnh, khẩu khổ, yết can, mục huyễn dã. Xét thiếu dương là theo tướng hoả hoá khí, phân ở mạch, bắt đầu ở đuôi mắt, vòng xuống tai má, vào ngực đến cách mô, theo bờ sườn đi xuống đến mắt cá chân, tận cùng ở ngón áp út. Khi mắc bệnh thì kinh khí ủng bách, không thể thuận giáng, cho nên ngực đau hiếp sườn bĩ muộn, tướng hoá thượng viêm, có nên miệng đắng họng khô, dương khí thăng phù thành ra hoa mắt, trọc khí sung tắc, thì ù tai. Dương thịnh tắc nhiệt, âm thịnh tắc hàn, cho nên hàn nhiệt vãng lai. Thương hàn trúng phong, nhất nhật Thái dương, nhị nhật Dương minh, tam nhật tắc truyền Thiếu dương. Nhưng tam dương Thiếu âm, mà không truyền nhập phủ Dương minh, tạng Thiếu âm thì không phải là chứng của Thiếu dương. Lục nhật kinh tận hãn xuất biểu giải, nếu không thể tự giải, thì dùng Ma hoàng Quế chi phát hãn, chứ không thể dùng Đại, Tiểu sài hồ thang. Nếu nội truyền tạng phủ, bên ngoài liền cập đến kinh Thiếu dương thì đương nhiên sau đó sẽ hiện chứng của Thiếu dương, có chứng của Đại, Tiểu sài hồ thang chứ không còn liên quan đến Ma Quế của Thái dương bệnh chứng. Xét gốc bệnh của Thái dương kinh là do kinh khí uất bách, biểu lý bất hoà, dùng Tiểu sài hồ thang làm chủ. Nếu:

+ Thái dương kinh chứng bệnh chưa trừ, mà có xu hướng nhập Thiếu dương thì dùng Sài hồ Quế chi thang. 

+ Thái dương bệnh chưa giải mà biểu thực, dùng Ma hoàng thang làm chủ

+ Thiếu dương bệnh đã biểu hiện mà lý hư, dùng Tiểu kiến trung thang làm chủ.

+ Thái thiếu hợp bệnh, mà tự hạ lợi, dùng Hoàng cầm thang làm chủ. Nếu có ẩu thổ dùng Hoàng cầm gia Bán hạ Sinh khương thang làm chủ.

+ Biểu chưa giải mà lý thực, dùng Đại sài hồ thang làm chủ

+ Biểu đã giải mà lý nhiệt, dùng Điều vị thừa khí thang làm chủ. 

+ Phụ nữ nhiệt nhập huyết thất, dùng Tiểu sài hồ thang làm chủ. 

Thiếu dương kinh hoại bệnh đề cương

Bản Thái dương bệnh bất giải, truyền nhập Thiếu dương giả, hiếp hạ ngạnh mãn, can ẩu bất năng thực. Vãng lai hàn nhiệt, thượng vị thổ hạ, mạch Trầm Khẩn giả, dữ Tiểu sài hồ thang. Nhược dĩ thổ hạ phát hãn, ôn châm, thiềm ngữ, Sài hồ chứng bãi, thử vi hoại bệnh. Xét Thiếu dương là nơi âm dương giao hoà, bán biểu bán lý, cấm kị phát hãn, thổ, hạ, làm tiết âm dương. Dương hư mà nhập vào tạng Thái âm, âm hư mà nhập vào phủ Dương minh, thì đó là hoại bệnh của Thiếu dương. Như Thái dương bệnh không thể phát hãn mà giải, bệnh truyền nhập Thiếu dương, hiếp hạ ngạnh mãn, can ẩu bất thực, vãng lai hàn nhiệt, nếu chưa cho thổ hạ, mạch Trầm Khẩn, toàn bộ là chứng của Tiểu sài hồ thang thì nen dùng Tiểu sài hồ thang. Nếu đã phát hãn, thổ, hạ, ôn châm dẫn đến thiềm ngữ không hiện rõ, chững của Sài hồ hết thì đó là hoại bệnh của Thiếu dương. Đó là trị sai mà thành. Xét Thiếu dương hoạt bệnh nhập Dương minh, nếu:

+ Lý hư mà tâm quý phiền, dùng Tiểu kiến trung thang làm chủ

+ Lý hư mà tâm động quý, dùng Chích cam thảo thang làm chủ.

+ Lý hư mà phiền mãn thiềm ngữ, dùng Sài hồ gia Long cốt Mẫu lệ thang làm chủ.

+ Thiếu dương bản bệnh chưa hết thì dùng Tiểu sài hồ thang làm chủ

+ Biểu chưa giải mà lý thực, vẫn dựa theo Đại sài hồ thang làm chủ

+ Biểu chưa giải mà lý nhiệt, dùng Sài hồ gia Mang tiêu thang làm chủ.

+ Truyền nhập vào Thái âm mà biểu lý đều chưa giải thì dùng Sài hồ Khương Quế làm chủ.

Thiếu dương kinh hoại bệnh kết hung bĩ chứng đề cương

Thái dương và Thiếu dương tính bệnh, đầu hạng cường thống, hoặc huyễn mạo, thời như Kết hung, tâm hạ bĩ ngạnh giả, đáng thích Đại chuỳ đệ nhất gian, Phế du, Can du, thận bất khả phát hãn, phát hãn tắc thiềm ngữ, mạch Huyền. Ngũ lục nhật thiềm ngữ bất chỉ, đáng thích Kì môn. Thái dương Thiếu dương tính bệnh, tâm hạ ngạnh, cảnh hạng cường nhi Huyền giả, đáng thích Đại chuỳ, Phế du, Can du, cản thận chớ dùng phép hạ. Thái dương Thiếu dương tính bênhk, mà trái lại dùng phép hạ, thành chứng Kết hung, tâm hạ ngạnh, hạ lợi bất chỉ, thuỷ tương bất hạ, kì nhân tâm phiền. Xét bệnh tại Thiếu dương, hoặc nhập vào Dương minh phủ, hoặc nhập vào Thái âm tạng. Bệnh truyền nhập vào Dương minh mà chứng ở Thiếu dương vẫn còn, dùng phép hạ quá sớm sẽ thành Kết hung. Bệnh truyền nhập Thái âm, dùng nhầm phép hạ thì thành chứng Bĩ.  Cùng với chứng Kết hung, Bĩ chứng của Thái dương có phần giống nhau. Xét Kết hung chứng, dùng Đại hãm hung thang làm chủ. Bĩ chứng, dùng Bán hạ tả tâm thang làm chủ.

Thái âm kinh đề cương

Thái âm chi vi bệnh, bụng đầy mà nôn, thực bất hạ, tự lợi ích thậm, thời phúc tự thống, nếu dùng phép hạ, ắt hung hạ kết ngạnh. Xét Thái âm lầ thấp thổ chủ lãnh, kinh mạch bắt đầu từ ngón chân cái, tuần hoành quanh mắt cá chân trong, vào bụng, lên cách mô, đến hầu họng, nối liền ở gốc lưỡi. Thái âm vi tam âm chi trường, Thái dương kinh bệnh không trừ, doanh vệ nội uất, mà Dương minh, mà Thiếu dương, 4 ngày sau ắt truyền nhập kinh Thái âm. Nếu tạng âm bẩm tố thịnh vượng, thì không cần biết bao nhiêu ngày, sẽ tự theo kinh mạch mà nhập vào phủ. Nhập tạng ắt phải ôn lý, nếu chỉ giải biểu thì bệnh không thể khỏi. Trọng Cảnh lập ra thiên Thái âm và Thiếu âm, đều là chỉ ra bệnh đã nhập là tạng, chứ không phải là bệnh ở kinh 4,5,6 ngày. Xét Thái âm bệnh:

+ Biểu hàn chưa giải, thì vẫn dùng Quế chi thang làm chủ. 

+ Biểu chưa giải mà lý có hàn cấp, trước dùng Tứ nghịch thang làm chủ, sau dùng Quế chi thang làm chủ. 

+ Biểu đã giải mà lý có thực hàn, dùng Tứ nghịch thang làm chủ. Lý có hàn mà trên có hư nhiệt, dùng Hoàng liên thang làm chủ.

+ Biểu chưa giải mà lý đã hư, dùng Quế chi gia Thược dược thang làm chủ

+ Biểu chưa giải mà lý thực, dùng Quế chi gia Đại hoàng thang làm chủ.

+ Biểu hàn uất mà nội sinh thấp nhiệt, dùng Nhân trần thang làm chủ.

+ Biểu thấp uất mà nội sinh ứ nhiệt, dùng Ma hoàng Liên kiều Xích tiểu đậu thang làm chủ.

+ Biểu lý đều có ứ nhiệt, dùng Chi tử Bá bì thang làm chủ.

Thiếu âm kinh đề cương

Thiếu âm chi vi bệnh, mạch Vi Tế, đãn dục mị dã. Xét Thiếu âm là dựa theo quân hoả hoá khí, bắt đầu ở ngón chân út, đi ra ở lòng bàn chân, vòng quanh mắt cá chân trong, lên đi vào giáp tích đến cách mô, vào trong Phế, vòng lên họng mà lên đến gốc lưỡi. Thái dương kinh bệnh không giải, từ biểu truyền vào lý, đến Dương minh, Thiếu dương, Thái âm, 5 ngày thì truyền vào Thiếu âm kinh. Nhưng khi truyền vào Thiếu âm kih, không đi vào Thiếu âm tạng. Đó là do dương không suy, âm cũng không thịnh, âm thịnh thì từ kinh mà nhập vào tạng, không hoá khí ở quân hoả, mà hoá khí ở hàn thuỷ. Bệnh ở Thiếu âm thì thuỷ thịnh mà hoả bại, dương khuy âm vượng, biểu hiện mạch Trầm Tế mà ham ngủ, người nằm co mà sợ lạnh. Xét Thiếu âm bệnh nếu:

+ Biểu lý cùng hàn, dùng Ma hoàng Phụ tử Tế tân thang, Ma hoàng Phụ tử Cam thảo thang làm chủ.

+ Lý hàn mà thuỷ thịnh, dùng Tứ nghịch thang làm chủ.

+ Lý hàn mà thổ bại, dùng Phụ tử thang làm chủ

+ Lý nhiệt thăng mà họng đau, dùng Cam thảo thang, Cát cánh thang làm chủ

+ Lý âm nghịch mà họng đau, dùng Bán hạ tán cập thang làm chủ.

+ Họng đau mà mọc mụn, không nói được, dùng Khổ tửu thang làm chủ.

+ Họng đau mà ngực đầy tâm phiền, dùng Trư phù thang làm chủ. 

+ Lý hàn mà thổ hư, dùng Ngô thù du thang làm chủ. 

+ Lý hàn mà thuỷ phạm, dùng Chân vũ thang làm chủ.

+ Lý nhiệt mà có thấp, dùng Trư linh thang làm chủ.

+ Lý nhiệt mà có uất, dùng Tứ nghịch thang làm chủ.

+ Lý hàn mà dương vi, dùng Thông mạch Tứ nghịch thang làm chủ.

+ Lý hàn mà mạch tuyệt, dùng Bạch thông thang làm chủ

+ Lý hàn mà vô mạch, ẩu phiền, dùng Bạch thông gia Trư đởm chấp thang làm chủ. 

+ Lý hàn mà hạ lợi nùng huyết, dùng Đào hoa thang làm chủ.

+ Lý nhiệt mà tân dịch hao tán, dùng Hoàng liên A giao thang làm chủ

+ Lý nhiệt mà thuỷ kiệt, dùng Đại thừa khí thang làm chủ.

Quyết âm kinh đề cương

Quyết âm chi vi bệnh, tiêu khát, khí thượng xung tâm, tâm trung nhiệt đông,, cơ nhi bất năng thực, thực tắc thổ hồi, hạ chi lợi bất chỉ. Xét Quyết âm là phong mộc sinh lãnh, bắt đầu ở ngón chân cái, đi lên nhập vào bụng dưới, lên hung cách, phân bố ở mạn sườn, tuần hành liên họng, liền cập đến mắt, giao với Đốc mạch ở đỉnh đầu. Thái dương kinh bệnh khôg giải, ngày truyền 1 kinh, đến Dương mih, Thiếu dương, Thái âm, Thiếu âm, 6 ngày là truyền đến Quyết âm kinh, là tận cùng của Lục kinh. Nếu chỉ truyền theo Quyết âm kinh mà không nhập vào Quyết âm tạng thì hết vòng kinh biểu giả, tự có thể ra mồ hôi mà bệnh khỏi. Nếu có biểu hiện của doanh vệ uất át, kinh mạch mạc dung, thì chưa phải đã hãm vào bên trong mà có thể tự phát ra bên ngoài. Đó tuy là truyền biến ở Quyết âm kinh, mà có chứng nhiệt quyết của Quyết âm, thì chứng thổ lợi đại khái không phát tác. Nếu có phát tác thì là tạng bệnh, chứ không phải bệnh ở kinh. Khi đã nhập tạng rồi thì xuất nhập, cát hung khó bàn. Âm thịnh thì nội truyền, mà truyền biến bất định ngày. Dương phục thì ngoại giải, mà giải bất định kỳ. Âm thịnh tắc tử, dương phục tắc sinh. Xét Quyết âm bệnh, nếu_

+ Lý hàn mà thổ hồi, dùng Ô mai hoàn làm chủ.

+ Biểu hàn mà lý hư, dùng Đương quy Tứ nghịch thang làm chủ.

+ Nếu bên trong có tích hàn, dùng Đương quy tứ nghịch gia Ngô thù du Sinh khương thang làm chủ.

+ Lý hàn mà nôn, dùng Qua đế tán làm chủ. 

+ Lý hàn mà có thuỷ, dùng Phục linh Cam thảo thang làm chủ

+ Lý hàn mà quyết nghịch, dùng Tứ nghịch thang làm chủ

+ Lý hàn mà dương uất, dùng Thông mạch Tứ nghịch thang chủ chi.

+ Lý hàn mà trên có phù nhiệt, dùng Can khương Hoàng liên Hoàng cầm Nhân sâm thang làm chủ.

+ Lý hàn mà trên hư, dùng Ngô thù du thang làm chủ.

+ Dương hồi mà lý nhiệt hạ lợi, dùng Bạch đầu ông thang làm chủ.

+ Dương hồi mà lý nhiệt có phân táo, dùng Tiểu thừa khí thang làm chủ.

+ Dương phục mà lý sinh phiền nhiệt, dùng Chi tử thị thang làm chủ.

0/Post a Comment/Comments