Tôi bắt đầu học Trung y cách đây 20 năm, khi mới học về Mạch chẩn, tôi đã học về nhị thập bát mạch truyền thống nhưng thấy khó quá. Khi đó đối với Trung y tôi cảm thấy là bán tín bán nghi, tin vì đã tự xác thực Trung y có thể điều trị khỏi 1 số bệnh khó trên lâm sàng, nghi vi thông qua mạch chẩn không thể xác định được chính xác chứng trạng của bệnh nhân.
Cho đến khi đọc cuốn <Tứ thánh tâm nguyên> thì nó đã làm chấn động nội tâm của tôi. Hoá ra Trung y là có quy luât. Tôi bắt đầu sử dụng tư tưởng về “viên vận động-chuyển động tròn” để phát hiện mạch, chú ý đến sự thăng giáng của khí cơ, nhờ đó độ chính xác của mạch chẩn được tăng lên, hiệu quả điều trị cũng theo đó mà tốt hơn. Sau đó tôi đã dựa theo mạch chẩn dưới sự quan hệ với cuốn <Y học trung trung tham tây lục>, cùng với việc nghiên cứu một lượng lớn y án, tổng kết lại mạch tượng, tôi phát hiện mạch mạch chẩn nên chú trọng đến “Mạch thế”.
Như trong y án của Trương Tích Thần có đề cập “tả mạch đại ư hữu mạch nhất bội”, “kì mạch Huyền Ngạnh nhi Trường, hữu bộ vưu thậm” (đều ý là mhơn mạch tả một phần), “chẩn kì mạch quan hậu Vi Nhược, quan tiền hựu tự Hoạt Thực”. Trong quá trình chẩn mạch, tôi cảm nhận được xu thế của mạch, và phát hiện rằng việc nắm bắt xu thế thăng giáng của khí cơ và trạng thái hư thực là dễ dàng hơn. Trong giai đoạn này tôi tăng số lượng bệnh nhân bắt mạch từ 70-80 thành 130-150 mỗi ngày.
Thói quen của tôi là trước tiên sẽ bắt mạch sau đó đề xuất sự khó chịu của bệnh nhân, rồi sau đó sử dụng vấn chẩn để xác định lại tình trạng khó chịu của bệnh nhân. Phương diện thứ nhất là nó có thể ngăn việc bệnh nhân mô tả tình trạng bệnh trước khiến bác sĩ bị định hướng. Phương diện khác nó có thể giúp bản thân bác sĩ hiểu chính xác hơn về chẩn mạch. Đương nhiên khi bác sĩ nói về chứng trạng của bệnh nhân sẽ khiến họ tăng sự tiên tưởng với Trung y.
Ngoài ra, chẩn đoán mạch không chỉ có thể phán đoán hiện tại, mà còn có thể dự đoán tương lai. Tôi đã sử dụng phép chẩn mạch để tiên lượng chính xác sự xuất hiện của đột quỵ và nhồi máu cơ tim cấp ở bệnh nhân.
Sau đó tôi lại được tiếp xúc với cuốn <tam bộ lục bệnh học thuyết> của Lưu Thiệu Vũ, “tứ mạch định chứng” của ông ấy đã mang lại cho tôi nguồn cảm hứng lớn, và một lần nữa lại khiến tôi thấy được sự quan trọng của mạch chẩn và tầm quan trọng của việc phân loại. Dựa trên căn cứ về mạch mà giữ nguyên phương điều trị hay không, nguyên tắc này đã mang lại nhiều lợi ích cho tôi.
Hiện tại tôi đang điều trị cho 1 bệnh nhân mất ngủ hơn 10 năm, khi bệnh nặng thì đêm chỉ có thể ngủ được 1-2 tiếng, mạch tượng có tình trạng “thượng việt thả quá ngư tế-mạch dồn lên quá huyệt Ngư tế”, sau 2 tháng cho dùng Điều thần thang không có hiệu quả, nhưng vẫn vững tin vào mạch học, tiếp tục cho dùng phương trên đến tháng thứ 3 thì đã có thể ngủ 6-7 tiếng, tinh thần bệnh nhân cũng dần cải thiện.
Tôi cho rằng mạch học là phân loại rất quan trọng, sở dĩ 28 loại mạch khó học, bởi vì phương pháp phân loại là phức tạp. Khi mới học về chẩn mạch nên bắt đầu với phương pháp phân loại đơn giản, sau đó có thể dần dần nâng lên thành phức tạp.
Theo kinh nghiệm của tôi, mạch tượng tức là khí tượng, trọng điểm mạch mạch chẩn là “tượng mạch”, như khi bắt mạch thấy “thốn quan xích phù thủ bất đáo, trung đáo hữu, trầm thủ bất đáo-đại ý là mạch này bắt được rõ nhất ở trung án”; loại mạch này giống với mạch của Lưu lão từng giới thiệu, tức là thốn Nhược, quan Đại, xích Nhược, hình tượng này là có thể được thể hiện qua “Khảm quái”, tương đương với “mạch động” trong 28 mạch, nhưng nó phong phú hơn nội hàm của mạch động, phương tễ điển hình là Thăng dương ích Vị thang của Lý Đông Viên.
Khi bắt mạch mà “thốn phù thủ bất đáo, trung đáo hữu, trầm đáo hữu” thì tương đương với hạ hãm mạch, tức là “thốn Nhược, quan Cường, xích Cường”, tượng là Đoài quái, phương tễ điển hình là Bổ trung ích khí thang, Hoàn đới thang, Kinh phòng bại độc tán,v.v…cũng là mạch tượng này nhưng nếu bộ quan cũng Nhược, hoặc “trung thủ dã bất đáo”, thì sẽ tương đương với “Chấn quái”, phương tễ đại biểu là Thăng hãm thang và Để đương thang,v.v.…của tễ hoạt huyết hoá ứ.
Khi bắt mạch nếu “thốn quan xích đều là Phù thủ đáo, trung thủ dã hữu, trầm hữu nguyên” thì tương đương với “Tốn quái”, dùng Tiềm dương đan, Quế Phụ Địa hoàng thang là phương đại biểu.
Khi tôi dùng phương pháp này để giảng dạy học viên, các học viên đã nhanh chóng nắm bắt được, có một số học viên có thể theo dõi mạch của bệnh nhân chỉ sau nửa ngày học.
Dưới đây là 2 y án tôi đưa ra để mọi người cung thảo luận.
Y án 1: ù tai ngoan cố do thần kinh. Nam 53 tuổi, ù 2 tai gần 7 năm, được 2 viện lớn ở Bắc kinh chẩn đoán là “thần kinh tính nhĩ minh”, sử dụng Mecobalamin mãi mà không hiệu quả, sau đó hội chẩn với nhiều chuyên gia về Trung y điều trị thêm nữa năm cũng không hiệu quả. Do mẹ của ông ta từng điều trị viêm khớp gối chỗ tôi nên lần này đến khám trị.
Chẩn đoán: tai phải gần như không nghe thấy gì, tai trái còn nghe được khá rõ, 2 sườn trướng mãn, miệng đắng, có cảm giác người sợ lạnh, không ra mồ hôi. Nhị tiện bình thường, do tai ù nên ngủ kém. Đầu lưỡi đỏ, rêu trắng; “hữu mạch đại ư tả mạch”, cả 2 tay đều là “thượng việt mạch”, tay phải bộ thốn quá cả lằn chỉ cổ tay, tay trái bộ quan xích lấy Tế Huyền làm chủ.
Xem lại các bài thuốc trước thấy đa phần là tả quan, bổ thận. Tôi cho rằng “thượng việt mạch” lấy phong làm chủ, sự hình thành của phong đa phần là thượng nhiệt hữu hàn hoặc biểu hàn lý nhiệt, dựa theo mạch 2 tay, thì hiển nhiên đây là biểu hàn lý nhiệt, cho nên dùng Tiểu tục mệnh thang gia Sinh thạch cao. Sau khi dùng 14 tễ, tình trạng ù tai trái giảm nhẹ rõ rệt, sau đó bỏ Thạch cao, tiếp tục dùng thêm 3 tháng thì tai hết ù, thính lực cơ bản trở về bình thường.
Tiểu kết
+ Thượng việt mạch gặp ở nhiều bệnh khó, trên lâm sàng chủ yếu gặp ở “phong tà” trong lục dâm, khi này nên chon Tiểu tục mệnh thang, nếu như có tình trạng thấp chẩn ngoan cố thì đa phần nên chọn Phòng phong thông thánh tán, nếu mất ngủ ngoan cố thì trước tiên chọn dùng Sài hồ Long cốt Mẫu lệ thang, nếu viêm họng mạn tính, háo suyễn, viêm mũi thì trước tiên nên chọn Quế Phụ Địa hoàng thang thì sẽ có hiệu quả
+ Có nhiều bác sĩ cho rằng khi khí chất bị tổn thương sẽ rất khó khôi phục, Tây y hiện đại rất chú ý đến công nghệ tế bào gốc trong kĩ thuật sinh học, nhưng thực ra nó không bằng sử dụng “phong dược” của Trung y, phong dược là thứ thuốc của mùa xuân, có thể thúc đẩy công năng khôi phục và sửa chữa của cơ thể, đảo ngược trạng thái tổn thương khí chất như thần thoại.
Y án 2: chứng vô sinh. Nữ 29 tuổi, sau 4 năm kết hôn không có thai, khám tháng 6/2018, mạch tượng là hữu mạch Huyền Trường, hơi cứng, đó là hiện tượng của Mộc khi khô kiệt, rất gần với mạch của phụ nữ trung niên; tả mạch có bộ thốn Nhược, bộ quan, xích Huyền Trường.
Tôi nói rằng cô ấy không dễ thụ thai, có thụ thai cũng khó giữ, mà còn bị chứng tiện bí. Bệnh nhân nói: đúng vậy, 4 năm qua lấy nhau mà không có thai, được Tây y chẩn đoán là buồng trứng đa nang, u xơ tử cung, tắc vòi trứng 2 bên.
Do là hữu mạch chủ giáng, hữu xích Trường, nên tôi xác định là có tiện bí, bệnh nhân cũng cho biết là tiện bí từ hồi bé. Do tả thốn Nhược, tả quan tả xích Huyền Trường nên cho là Tiểu trường nhiệt, tam khí phù táo. Tôi cho rằng bệnh nhân thích ăn đồ ngọt, bệnh nhân tự kể rất thích ăn trái cây.
Tôi tổng kết chứng “vô sinh và lưu sản quán tính” có mạch tượng đa phần là: tả thốn nhược, hữu xích Nhược, khí của tâm thận bất túc. Ở bệnh nhân này thì mạch tượng 2 bộ xinh đều có căn, nên bảo bệnh nhân điều tích cực là sẽ có thai.
Tôi căn cứ mạch tượng cho dùng Tiểu sài hồ thang hợp Đào hạch thừa khí thang, do là hữu xích chủ tam tiêu, lấy Huyền làm chủ, chọn dùng Tiểu sài hồ thang. Hữu mạch chủ giáng, Huyền Trường là do phế khí không giáng; tả mạch chủ thăng, tả xích Huyền Trường là Can khí bất thăng, khí trệ huyết ứ, chọn dùng Đài hạch thừa khí thang.
Bệnh nhân sau khi dùng 3 tễ bắt đầu đại tiện lỏng, sắc đen, sau đó hướng dẫn dừng thuốc ngắt quãng để phân lỏng ở mức độ vừa phải. Sau 2 tuần điều chỉnh lại phương thuốc: dừng Sinh Đại hoàng, đổi thành Sinh giả thạch, Nhân trần, tiếp tục cho uống; đến ngày 20/9 cô ấy gọi lại cho tôi và báo đã có thai, kiểm tra mọi thứ đều bình thường.
Tiểu kết
+ Bệnh nhân này bị buồng trứng đa nang, u xơ tử cung, tắc vòi trứng 2 bên, nên điều quan trọng là phai điều hoà khí cơ. Nếu chỉ chú trọng vào “hình thái” thì trung y có rất nhiều bệnh điều trị không hiệu quả. Tăng sinh tuyến tiền liệt, bệnh lý cột sống thắt lưng, bệnh lý xương khớp,.v.v…kiểm tra đều là căn cứ vào hình thái, nhưng theo kinh nghiệm của tôi, một số bệnh lý tuy khiến hình thái bị biến đổi vẫn có thể điều trị đạt kết quả tốt.
+ Quan trọng là mạch tượng, căn cứ mạch tượng chọn phương, giữ nguyên phương hay không và để tiên lượng bệnh.
Sau 20 năm thực chiến lâm sàng, tôi nhận ra mạch chẩn là công cụ chẩn đoán quan trọng, đặc biệt là với một số bệnh khó, hoặc không thể sử dụng vấn chẩn thì mạch chẩn càng trở nên quan trọng.
Trong <Thương hàn luận> nói: hiện kì mạch chứng, tri phạm hà nghịch, tuỳ chứng trị chi. Tức là sau khi nắm vững tình trạng mạch, chúng ta có thể tuỳ theo chứng mà trị
Tác giả: Tạ Tương Trí
Đăng nhận xét