1/ Tiết tả (viêm ruột mạn tính), Trương Hoành Tuấn y án
Nữ 42 tuổi, khám ngày 12/10/1984 vì chứng tiết tả tái đi tái lại đã 8 năm, được chẩn đoán là viêm đại tràng mạn tính bằng nội soi ở bệnh viện, điều trị nhiều nơi đều không có hiệu quả.
Mỗi khi bệnh phát là bụng đau, sôi ruột, đi ngoài phân lỏng nát toàn nước, không có mùi hôi và không có cảm giác nóng rát hậu môn, mỗi ngày 2-3 lần, nhiều thì 5 lần, bẩm tố đoản khí ngại nói, tiểu tiện lượng ít. Qua sát lưỡi nhợt bệu, rêu trắng xám mà dính, mạch Trầm Hoãn vô lực.
Sau khi xét mạch chứng cho rằng đây là chứng tiêu chảy lâu ngày, tỳ dương hư suy, ẩm tà nội sinh, hạ chú đại tràng, cho dùng Linh Quế Truật Cam thang gia vị: Phục linh, Bạch truật, Luật thảo (Humulus scandens (Lour.) Merr.) đều 20g, Quế chi, Chích thảo đều 10g, sắc nước uống ngày 1 tễ.
Sau khi dùng 9 tễ đã không còn đi ngoài lỏng nước, phân khuôn hơi nát, ngày 1-2 lần, tình trạng đoản khí và các chứng khác đều chuyển biến tốt, dùng tiếp phương trên gia thêm Đẳng sâm, Biển đậu sao 10g, để kiện tỳ ích khí trợ vận, sau khi liên tục dùng 12 tễ, đại tiện đã thành khuôn, các chứng đều khỏi. Theo dõi 1 năm chưa tái phát (Trung y Thiểm Tây 1989; 41: 28).
Xét: Tỳ dương bất túc, thuỷ ẩm nội đình, trực chú đại trường, tắc tiết tả bất chỉ, dùng Linh Quế Truật Cam thang ôn Tỳ dương, phục hồi vận hoá, thuỷ ẩm được hoá thì tiết tả tự cầm.
2/ Tiêu khát. Trần Bồi Kiến y án
Nam 53 tuổi, khám ngày 21/4/1983. Gần 2 tháng nay xuất hiện miệng họng khô táo, thường xuyên phải uống nước, không thì phiền khát không chịu được, uống đến mức bụng trướng nhưng miệng vẫn khát, đêm uống nước đến tận 7-8 bát, tiêur tiện trong dài, rêu trắng dính, mạch Nhu Sác.
Kiểm tra: đường huyết lúc đói 108mg%, tiểu đường (-). Từng dùng thuốc thanh nhiệt dưỡng âm, sinh tân chỉ khát đến hơn 50 tễ mà không hiệu quả. Tác giả cho là chứng thuộc thấp nhiệt gây bệnh, ứng với “táo-là chữ can táo”, ban đầu cho dùng Bình vị tán và Tam nhân thang
Sau 3 tễ khám lại, miệng khát can táo càng nặng, đổi cho dùng Linh Quế Truật Cam thang: Phục linh 30g, Quế chi 9g, Bạch truật 9g, Cam thảo 3g. Cắt 1 thang để quan sát bệnh tình. Hôm sau báo rằng tình trạng khát đã giảm nhẹ, uống tiếp 4 tễ mà khỏi (Cát Lâm trung y dược 1992; (1): 28)
Xét: y án này biện chứng ban đầu bị sai, sau đó xem xét kĩ lại bệnh tình, biết khát uống nước không ngừng đến mức bụng trướng vẫn không hết khát là do thuỷ thấp bất hoá; miệng khát họng khô mà lưỡi rêu không vàng, cũng là do không có nhiệt. Chứng thuộc trung tiêu dương khí suy, không thể hoá khí hành thuỷ, tân dịch không thăng lên trên nên miệng khát.
Nhưng do không có chứng tiểu tiện bất lợi, cho nên không dùng Ngũ linh tán thẩm thấp lợi Bàng quang, mà dùng Linh Quế Truật Cam thang bổ trợ trung dương, ôn hoá thuỷ thấp, thổ kiện thấp hoá, tân dịch tứ bố thì táo khát tự trừ.
3/ Kinh quý - Cát Ích Nam Nhai y án
Nữ, uất mạo thượng nghịch, bình thường dễ sợ hãi, nghe thấy bước chân thì kinh quý, giật mình, cho nên không muốn gặp người, thường ngồi một mình trong vườn. Mời tiên sinh đến chẩn trị, cho dùng Linh Quế Truật Cam thang, bệnh bao năm nay dần dần được khỏi. <Hoàng Hán y học phạm 956:135>
Xét: thuỷ ẩm nội đình, thuỷ ẩm thượng xung, tâm thần bị nhiễu, mà thành ra kinh quý bất an, cho nên kèm theo có chứng uất mạo, thượng nghịch, đáng dúng Linh Quế Truật Cam thang.
4/ Thống tý (Loại phong thấp tính quan tiết viêm) Thân Hồng Nghiễn y án
Nữ 60 tuổi. Xương khớp tứ chi đau nhức, gặp lạnh càng đau, khớp cổ tay sưng trướng hạn chế vận động, khớp bàn ngón tay biến dạng, điều trị nhiều nơi không khỏi. Sử dụng prednisone trong thời gian dài cũng không có hiệu quả.
Mạch Trầm Huyền, rêu lưỡi trắng mỏng, đó là phong hàn thấp tý trở trệ, là hàn tà thiên thắng, phép trị nên dùng ôn tán, phương dùng Linh Quế Truật Cam thang gia Ô sao xà, Uy linh tiên, Xuyên khung. Sau khi dùng 5 tễ, đau đớn giảm nhiều, còn hơi có miệng khát phiền táo, dùng tiếp phương trên gia Tang kí sinh, Bạch thược, để dự phòng tân ôn làm hoa tán thái quá, dùng hơn 50 tễ, cổ tay đã có thể hoạt động tự do, có thể làm việc nhà (Tân y học 1976 (2): 90)
Xét: đây là thống tí và dật ẩm làm bệnh, trong <Kim quỹ yếu lược> có nói: “ẩm thuỷ lưu hành, quy ở tứ chi, đáng hãn xuất nhi bất hãn xuất, thân thể đông thống, vị cho dật ẩm”. Thuỷ ẩm lưu hành ở tứ chi, bế trở kinh lạc, trở ngại dương khí, thì đau đớn mà gặp hàn lạnh thì càng nặng, mạch hiện Trầm Huyền.
Điều trị cần nắm bắt 2 điểm chính: một là ôn hoá hàn ẩm, hai là tán hàn thông kinh. Hàn ẩm khứ thì dương khí phục hồi, kinh lạc thông thì đông thống tự chỉ. Phương dùng Lonh Quế Truật Cam hoá ẩm để trị gốc, gia Ô tiêu sào, Linh tiên, Xuyên khung thông kinh để trị ngọn, tiêu bản đồng trị, phương chứng tương ứng, lại kiên trì uống thuốc mà bệnh dần khỏi.
5/ Bạch đới – Mã Tử Tri y án
Nữ 35 tuổi, khám ngày 25/8/1985. Bạch đới lượng nhiều, như mủ như nước mũi, lâm li không dứt 3 năm. Kèm theo eo lưng đầu gối yếu, bụng trướng không thoải mái, trong bụng thường thấy tiếng lọc xọc. Rêu lưỡi trắng mỏng mà dính, mạch Trầm Huyền.
Chứng thuộc hàn ẩm nội trở, thanh trọc bất phân, dùng Linh Quế Truật Cam thang gia vị: Phục linh 30g, Bạch truật 18g, Quế chi 10g, Chích thảo 10g, Ô dược 12g. Ban đầu dùng thuốc lượng bạch đới tăng nhiều, như băng như chú, tiếp tục dùng thuốc mà dần dần giảm bớt, tổng cộng là 16 tễ, bạch đới hết, các chứng khác cũng khỏi. Dự phòng 2 năm chưa tái phát (Hà Bắc trung y 1989 (4): 12)
Xét: y án này là đới hạ và Tỳ hư thuỷ đình, <Phụ khoa ngọc xích> nói: “thấp thổ hạ hãm, tỳ tinh bất thụ, bất năng du vi doanh huyết, nhi bạch vật hạ chú”. Cho nên dùng Linh Quế Truật Cam thang để kiện tỳ hoá ẩm.
6/ Mục tật (Thị thần kinh nhũ đầu thuỷ thũng-phù nề đầu dây thần kinh thị giác) Vương Duy Bành y án
Nam 38 tuổi. Thị lực 2 mắt trước đây là 1 và 2, nhưng nửa năm nay, thị lực giảm, bên trái 0,6; bên phải còn 0,1. Vào viện khám được chẩn đoán là “thị thần kinh nhũ đầu thuỷ thũng”, ngày 5/3/1985 đến khám.
Hình thể bệnh nhân hơi béo, đi lại không vững, chóng mặt nặng đầu, mệt mỏi ham nằm vô lực, ăn ít, đại tiện nát. Lưỡi nhợt rêu trắng, mạch Trầm Huyền. Mạch chứng tương hợp, là chứng Tỳ mất kiện vận, ẩm tà thượng phạm. Phép trị nên kiện Tỳ lợi thấp, thăng thanh giáng trọc, dùng Linh Quế Truật Cam thang.
Phương dùng: Phục linh 30g, Quế chi 10g, Bạch truật 45g, Chích thảo 6g. Dùng 5 tễ, chứng chóng mặt giảm nhẹ, đi lại cũng tốt hơn trước. Tiếp tục dùng phương trên gia giảm điều trị, uống thuốc hơn 2 tháng, các chứng đều biến mất, thị lực cũng khôi phục lên đến 0,9. (Trung y dược học báo 1986 (4): 42)
Xét: bệnh án về mắt này có kèm theo chóng mặt, mệt mỏi, ăn kém, đại tiện nát, lưỡi nhợt rêu trắng, mạch đến Trầm Huyền, là Tỳ dương bất túc, đàm ẩm nội đình, thuỷ thấp xâm phạm gây ra, cho nên dùng Linh Quế Truật Cam thang để ôn Tỳ dương, hoá đàm ẩm mà khỏi.
7/ Ngân tiết bệnh – Bồ Đức Phủ y án
Nam 13 tuổi, khám ngày 23/6/1986. Người cha kể lại: phát bệnh cách đây 1 tháng, ban đầu toàn thân nổi ban chẩn sắc đỏ, phát ngứa, dần dần lan rộng, trên bề mặt có “bạch tiết-vảy trắng”, ngứa ngày càng tăng kịch. Thầy trước cho là “thấp nhiêt” điều trị 1 tuần không có hiệu quả, đưa đến chỗ tôi điều trị
Quan sát toàn thân thấy có ban lớn nhỏ khác nhau, hình tròn, biên giới rõ ràng, viền xung quanh đỏ, nền thâm nhiễm rõ rệt, trên bề mặt có phủ nhiều lớp vảy màu trắng bạc. Cạo nhẹ lớp vảy trắng thì có màng đỏ tươi, trên có có các chấm máu nhỏ như hạt sương. Hình thể đứa bé hơi béo, mạch Hoạt Sác, đầu lưỡi đỏ, rêu trắng dính. Chẩn đoán là Ngân tiết bệnh.
Cho dùng Linh Quế Truật Cam thang gia vị: Phục linh 40g, Quế chi, Bạch truật, Chích thảo đều 10g, Thổ phục linh 20g. Ngày 1 tễ, sắc nước chia 3 lần uống. Sau khi dùng 5 tễ, tình trạng ngứa đã giảm, lớp vảy trắng cũng mỏng dần, tình trạng thâm nhiễm nhẹ hơn trước, viền đỏ cũng nhợt hơn trước, mạch Hoạt rêu trắng dính, dùng nguyên phương trên bỏ Thổ phục linh, gia Địa phu tử 15g.
Sau khi dùng liên tục 20 tễ, chỉ còn hơi ngứa, nền thâm nhiễm còn đỏ nhợt, lớp vảy giảm mỏng, mạch Hoạt, rêu lưỡi trắng nhiều tân dịch. Dùng tiếp nguyên trên bỏ Địa phu tử. Sau khi dùng 20 tễ, các tổn thương da ở người và chi trên đã biến mất, chỉ còn các ban hơi thâm, vùng đầu và chi dưới vẫn còn chút tổn thương, lớp vảy còn mỏng, hơi ngứa, mạch Hoạt, rêu trắng nhuận.
Dùng tiếp phương trên gia Đan sâm 10g. Sau khi dùng 10 tễ, tổn thương da ở vùng đầu và chi dưới cũng biến mất, còn lưu lại chút ban thâm, còn da ở người và chi trên đã hoàn toàn trở về binh thường. Lại dùng tiếp thêm 10 tễ, bệnh khỏi hoàn toàn. Năm sau tổn thương da trên đầu lại tái phát, tróc vảy, ngứa, cho dùng Phục linh gia Thủ ô 10g, sau 15 tễ bệnh khỏi. Theo dõi đến nay vẫn chưa tái phát (Trung y tứ xuyên 1990 (12): 45).
Xét: Tỳ chủ vận hoá thuỷ cốc tinh vi, trưởng dưỡng cơ phu. Tỳ mát kiện vận, chất tinh vi không ra được cơ phu, trái lại hoá thành ẩm. Y án này bên trong có thuỷ ẩm, ngoài cơ phu có tân dịch tổn thương, lâu ngày sinh táo hoá phong, phát thành ngứa, cho nên tuy đầu lưỡi đỏ, mạch Hoạt Sác mà rêu lưỡi trắng dính. Trị bệnh cầu bản, ban đầu chọn dùng Linh Quế Truật Cam thang kiện Tỳ hoá ẩm gia Thổ phục linh để thanh nhiệt giải độc.
Ẩm khứ tân dịch ban bố, cơ phu được nuôi dưỡng, ngứa gãi tự tiêu, như Lưu Độ Châu giáo sư cho rằng: Linh Quế Truật Cam thang chứng có liên quan đến “thuỷ khí thượng xung”, rất dễ dẫn đến tâm quý, hung muộn, đoản khí, Lưu lão gọi đó là “thuỷ tâm bệnh”.
Biện chứng trên lâm sàng ngoài bệnh danh thì còn phải chú ý đến biến hoá của sắc, lưỡi, mạch và chứng.
+ Về sắc: đa phần sắc mặt sạm đen gọi là “thuỷ sắc”. Bệnh nặng thì da ở gò má, trán, xung quanh mãi có xuất hiện hắc ban, gọi là “thuỷ ban”.
+ Về lưỡi: chất lưỡi non nhợt, rêu ướt nước hay nhổ
+ Mạch: hoặc Huyền, hoặc Trầm, hoặc Trầm Huyền cùng thấy, bệnh nặng thì có thể thấy Kết Đại hoặc Trầm Huyền bất khởi.
Biện chứng: (1) có chứng hậu của thuỷ khí thượng xung. Bệnh nhân tự có cảm giác khí từ tâm hạ thượng xung ngực họng; (2) hung mãn, nửa đêm càng nặng, gặp lạnh bệnh tăng nặng, đa phần kèm theo có hầu họng bất lợi, như có vật trở ngại; (3) tâm quý, đa phần phát lúc ngủ dậy, đêm ngủ, hoặc sau khi ăn, hoặc kèm theo huyết mạch cổ gáy bên trái trướng thống; (4) đoản khí.
Biểu hiện là vận động thì hung muộn phát biệt, hô hấp bất lợi, nặng thì ra mồ hôi lạnh. Trị phép là “thuỷ khí thượng xung” của “thuỷ tâm bệnh” cho dùng Linh Quế Truật Cam thang, phương này ôn dương hạ khí mà trị tâm quý, hung mãn, lợi tiểu tiện để tiêu thuỷ trở trệ mà trị đàm ẩm khái nghịch.
Dược vị tuy có 4 vị, nhưng phối ngũ tinh tuý, hiệu quả điều trị rất đáng kinh ngạc, đặc biệt trị chứng “thuỷ tâm bệnh”, có thể gọi là “độc thụ nhất xí-độc nhất”.
Khi dùng phương này trên lâm sàng có thể tuỳ chứng gia giảm: nếu đàm ẩm nhiều, mạch Hoạt thì phối với Nhị trần thang; nếu chóng mặt nhiều thì gia Thạch tả; nếu có hiện tượng bốc hoả đầu mặt thì gia Bạch vi; nếu huyết áp hơi tăng cao, có thể gia Hồng hoa, Thiến thảo, Ích mẫu thảo, Ngưu tất; nếu mạch hiện Kết Đại, thì giảm hoặc bỏ Bạch truật mà gia Ngũ vị tử; nếu thấp đàm gây ho, thì giảm hoặc bỏ Bạch truật mà gia Ý mễ; nếu thấy kinh quý bất an thì gia Long cốt, Mẫu lệ.

Đăng nhận xét