Mục đích của kinh phương hợp phương là để linh hoạt ứng dụng với bệnh chứng phức tạp. Các tình huống lâm sàng thực tế là bệnh chứng phức tạp nhiều hơn là chỉ có một bệnh chứng. Cho nên cơ hội ứng dụng của hợp phương cũng nhiều hơn so với việc ứng dụng từng phương riêng biệt.
Đường lối kết hợp phương tễ bắt nguồn từ Trọng Cảnh. Trong <Thương hàn luận> có tổng cộng 3 hợp phương, tức là Quế chi Ma hoàng các bán thang, Quế chi nhị Việt tì nhất thang, Sài hồ Quế chi thang, khi phân tách ra thì đó là các phương Ma hoàng thang, Việt tỳ thang và Tiểu sài hồ thang hợp phương với Quế chi thang. Có ý kiến cho rằng Quế chi thang là phương tễ trọng yếu trong ứng dụng hợp phương.
Trong những năm gần đây, lấy cảm hứng từ phương chứng thể chất của Hoàng Hoàng giáo sư, tác giả đã sử dụng Quế chi thang hoặc các phương tễ tương tự phối hợp với các phương khác để điều trị nhiều loại bệnh mạn tính khó chữa và đạt hiệu quả lâm sàng tốt, dưới đây là một số trường hợp:
1/ Quế chi gia Hậu phác Hạnh tử thang hợp Bán hạ Hậu phác thang điều trị háo suyễn.
Nữ 49 tuổi, khám ngày 9/3/2008 vì chứng háo suyễn tái đi tái lại hơn 10 năm, thường xuyên phải dùng aminophylline, bệnh tăng nặng trong 1 tháng nay, dùng Tây y không thể khống chế. Bệnh nhân có sắc mặt tím tối, “mục tình đột xuất”, hình thể béo (trước vốn là vận động viên, thể chất cường tráng, nhưng sau khi bị bệnh thì cân nặng tăng gần chục cân), hung muộn, suyễn, nửa đêm khó ngủ yên, ho nhiều, trong họng có tiếng đờm lọc xọc, tâm phiền, ố hàn, ra nhiều mồ hôi, tay chân lạnh, đại tiện khô, không có sức rặn, da khô táo, do ở 2 chân khô tróc vảy, 2 chân co rút, lưỡi tím tối, rêu trắng dính, mạch Phù Nhược
Phương dùng: Quế chi 10g, Bạch thược 10g, Xuyên phác 10g, Hạnh nhân 10g, Bán hạ chế 15g, Tô ngạnh 10g, Phục linh 15g, Chích thảo 5g, Sinh khương 6 lát, Hồng táo 6 quả. Dùng 5 tễ.
Khám lại ngày 17/3/2008: sau khi dùng 1 tễ tình trạng suyễn đã ngừng, có thể ngủ được, đã tự dừng aminophylline, tình trạng ra mồ hôi giảm hơn trước, hết sợ lạnh, lọc xọc đờm ở họng giảm, đại tiện không còn táo, lưỡi tối, rêu chuyển trắng mỏng, mạch Huyền thốn Nhược. Dùng phương trên giảm Bán hạ còn 10g, sau khi uống liên tục 14 tễ bệnh tình hoàn toàn được khống chế.
2/ Quế chi thang hợp Bán hạ Hậu phác thang điều trị viêm mũi dị ứng
Nữ 7 tuổi, khám ngày 28/5/2008. Bệnh nhân thường xuyên hắt hơi buổi sáng trong 4 năm qua, đặc biệt là mỗi khi gặp phấn hoa, hàn lạnh thì bệnh càng biểu hiện rõ rệt, đã điều trị nhiều nơi không hiệu quả. Bẩm tố ra nhiều mồ hôi, tay chân dễ lạnh, ăn uống kém, “vị khẩu bất khai-chán ăn hoặc là tâm vị co thắt mà nuốt nghẹn?”, giấc ngủ và nhị tiện vẫn bình thường, thân hình trung bình, sắc da hơi trắng, sờ thấy tay lạnh, chất lưỡi đỏ nhợt, rêu lưỡi ở giữa và gốc trắng dính, mạch Hoạt.
Phương dùng: Quế chi 10g, Bạch thược 10g, Chích thảo 6g, Bán hạ chế 10g, Phục linh 10g, Xuyên phác 10g, Tô ngạnh 10g, Sinh khương 3 phiến, Hồng táo 5 quả, dùng 5 tễ, sắc nước uống, ngày 1 tễ.
Khám lần 2 ngày 8/6: bệnh nhân gọi điện báo sau khi dùng 5 tễ tình trạng hắt hơi buổi sáng giảm ít, bệnh chuyển tốt 7/10. Dùng tiếp phương trên, 1 tễ dùng cho 2 ngày. Sau khi dùng thuốc bệnh tình ổn định, theo dõi đến nay cũng chưa tái phát.
3/ Quế chi thang hợp Tứ nghịch tán, Hoàng cầm thang, Tứ diệu tán điều trị phúc tả mạn tính.
Nam 21 tuổi, khám ngày 7/4/2010. Bệnh nhân bị chứng phúc tả hơn 1 năm, mỗi ngày đi khoảng 4 lần, bình thường hay đau ở vùng bụng dưới rốn 2 thốn, khi đau là buồn đi ngoài, đa phần bệnh phát từ nửa đêm đến sáng. Đồng thời tự cảm thấy người mệt mỏi, đau vùng xương cụt, tinh hoàn trướng thống, khi hắt hơi cũng thấy đau, âm nang nóng ẩm, sau khi gặp lạnh thì âm nang co rút, vùng âm bộ co rút mà đau, cần phải ngồi xổm vào xoa bóp một lúc thì chứng trạng mới hoãn giải. Miệng khô, tâm phiền, cằng chân đau nhức vô lực, sợ lạnh, thích được sưởi ấm, trên lưng còn vết bầm tím sau khi giác hơi. Quan sát thấy thể cách bệnh nhân khá tốt, sắc da đen sạm, lòng bàn tay sắc tím tối, bình thường ít mồ hôi, lưỡi tím nhợt, rêu rất vàng dính, hơi khô, mạch Trầm mà Tế Huyền.
Phương dược: Quế chi 10g, Bạch thược 15g, Chích thảo 10g, Sài hồ 15g, Chỉ thực 12g, Hoàng cầm 10g, Thương truật 15g, Hoàng bá 10g, Sinh ý dĩ 15g, Xuyên ngưu tất 15g, Sinh khương 5 phiến, Hồng táo 3 quả.
Khi khám lại bệnh nhân tự kể sau ngày đầu uống thuốc thấy dưới nách bắt đầu ra mồ hôi, hết ngày thứ 2 thì chỉ hơi vận động cũng ra mồ hôi. Sau 5 tễ thì tình trạng đau bụng được hoãn giải, đại tiện còn 2 lần/ngày, sáng tối đều 1 lần, không còn bị phúc tả lúc sáng sớm. Các chứng khác vẫn như cũ. Đổi dùng Quế chi gia Thược dược Phụ tử thang hợp Tứ diệu tán, Nội bổ Đương quy kiến trung thang: Nhục quế 10g, Bạch thược 20g, Chích thảo 6g, Đương quy 10g, Thục phụ tử 10g, Thương truật 30g, Hoàng bá 10g, Sinh ý dĩ 15g, Phục linh 15g, Xuyên ngưu tất 15g, Sinh khương 5 phiến, Hồng táo 3 quả.
Sau 5 tễ tự thấy cảm giác thân thể và tay chân lạnh chuyển biến rõ rệt, đại tiện 1 ngày 2 lần, cơ bản là thành khuôn, trước khi đại tiện không còn đau bụng, duy chỉ khi đi tiểu có cảm giác không thoải mái, thân thể đỡ mệt mỏi, cảm giác đau ở xương cụt giảm hơn trước, các triệu chứng giảm nhẹ rất nhiều.
4/ Quế chi gia Thược dược thang, Quế chi gia Long cốt Mẫu lệ thang hợp Quế chi Phục linh hoàn, Tứ diệu tán điều trị âm nang thấp chẩn
Nam 33 tuổi, khám ngày 10/4/2009 vì da mặt trong đùi và âm nang “triều hồng-nóng đỏ”, vùng âm nang ẩm ngứa hơn 1 tháng, kèm đạo hãn, tiểu tiện vàng đỏ. Bệnh nhân có thể trạng khá tráng thực, sắc da hơi tối, công việc phải ngồi nhiều, thường xuyên uống rượu bia, sinh hoạt không điều độ, những thức ăn chủ yếu ăn rất ít. Do khám qua điện thoại nên không xem được mạch lưỡi.
Phương dùng: Quế chi 5g, Xích thược 10g, Long cốt nung 15g (sắc trước),Mẫu lệ nung 15g (sắc trước), Đan bì 10g, Phục linh 10g, Thương truật 15g Hoàng bá 10g, Sinh ý dĩ 30g, Xuyên ngưu tất 10g, Thổ phục linh 30g, Sinh khương 3 phiến, Đại táo 3 quả.
Sau khi uống 10 tễ tình trạng âm nang ẩm ngứa, đạo hãn, tiểu tiện vàng đỏ đều biến mất, nhưng da vùng âm nang còn hơi nóng đỏ. Dùng tiếp 10 tễ, bệnh cơ bản khỏi hoàn toàn.
5/ Quế chi thang hợp Ngọc bình phong tán điều trị protein niệu, huyết niệu
Nam 30 khám ngày 2/1/2008. Bệnh nhân phát hiện có protein niệu cách đây 7 năm, lúc đó không có triệu chứng gì khác nên cũng không điều trị. Cách đây 1 năm bắt đầu xuất hiện mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt, tay sưng trướng, eo lưng đau nhức. Nửa năm trước đi kiểm tra Tây y được chẩn đoán là Protein niệu, dùng thuốc điều trị nhưng xét nghiệm biến đổi rất thất thường: RBC từ 25-150, protein niệu (+ cho đến ++). Chứng trạng chủ yếu: đau nhức eo lưng thường xuyên, tăng nặng sau khi lao động, dễ mệt mỏi, sợ lạnh, ra nhiều mồ hôi, đầu trướng thống, gáy cứng, dử mắt nhiều; từ thiếu phúc liền đến eo lưng cảm giác lạnh, chân phù nề, đại tiện hơi nát, tiểu tiện vàng, có cảm giác tiểu nóng. Bệnh nhân có thể hình tráng thực, nhưng sắc mặt hơi tối không sáng nhuận, lưỡi tím nhợt, rêu mỏng, mạch Trì Huyền. Đương thời cho là bệnh thuộc trung tiêu hư nhược, kèm hiệp Can kinh thấp nhiệt. Cho nên dùng Tiểu kiến trung thang và Long đởm tả can thang hợp phương. Kết quả sau 7 tễ chứng trạng cải thiện không rõ rệt.
Khi khám lại hỏi kĩ thêm thì bệnh nhân nói thường sợ gió lạnh, trong đầu cảm giác trống rỗng, không thể nhìn lâu, bắt mạch thấy Phù Tế vô lực. Chẩn đoán là doanh vệ lưỡng hư, thanh dương bất thăng là vấn đề chủ yếu. Đổi dùng Quế chi gia Cát căn thang hợp Ngọc bình phong tán gia vị: Quế chi 10g, Bạch thược 12g, Cát căn 20g, Chích thảo 5g, Sinh kỳ 20g, Bạch truật 10g, Phòng phong 10g, Đương quy 10g, Hoàng kỳ 10g, Sinh khương 3 phiến, Hồng táo 4 quả, dùng 5 tễ. Uống thêm Bổ trung ích khí hoàn, mỗi lần 8 hoàn, ngày 2 lần.
Kết quả khám lại bệnh nhân rất vui, cảm giác rất tốt, sức lực tăng tiến, 2 ngày trước đi Vạn lý trường thành mà không thấy mệt, gáy hết cứng, đầu không còn cảm giác trống rỗng, tình trạng đau nhức eo lưng giảm nhẹ, đại tiện thành khuôn. Đã dùng thuốc Tây y. Quan sát sắc mặt hết sắc tối, có biểu hiện sáng nhuận, lưỡi nhợt, rêu mỏng, mạch có lực hơn trước. Xét nghiệm nước tiểu: RBC 50, protein niệu (-). Sau đó dùng phương này làm phương cơ bản, mỗi ngày 1 tễ hoặc 2 ngày 1 tễ uống liên tục sau 2 tháng, đến 23/5/2008 kiểm tra lại không phát hiện bất thường, sắc mặt và tinh lực đều ở trạng thái tốt. Kiên trì uống thuốc 1 năm để củng cố điều trị.
6/ Quế chi thang gia Long cốt Mẫu lệ thang hợp Tuyển kì thang, Ngọc bình phong tán điều trị mất ngủ ngoan cố.
Nam 50 tuổi, là giáo viên trung học, khám ngày 20/2/2008 vì mất ngủ hơn 10 năm, gần 1 năm nay bệnh tình tăng nặng, khó vào giấc, mỗi đêm chỉ ngủ được 1-2 tiếng, dùng nhiều thuốc trung dược điều trị nhưng hiệu quả không rõ rệt. Khi khám bệnh nhân có khuôn mặt lo lắng, hốc hác, chán nản và thiếu tự tin vào điều trị, sắc mặt không nhuận, sắc vàng tối, đầu mũi đỏ sẫm, có “tiết sang-mụn bọc”, đau, tình trạng đã kéo dài ngày; bình thường ra nhiều mồ hôi, bị chứng nhìn đôi hơn 2 năm, tắc mũi chảy nước mũi vàng, gặp lạnh bệnh tăng nặng, đau đầu; tâm phiền; 2 chân phát lạnh, đại tiện dễ nát, dễ bị chuột rút bắp chân. Chất lưỡi đỏ nhợt, rêu lưỡi rất dày dính, mạch Phù Đại ít lực. Có tiền sử viêm xoang và phẫu thuật cắt polyp mũi.
Phương dùng: Quế chi 10g, Bạch thược 10g, Chích thảo 6g, Long cốt nung 15g, Mẫu lệ nung 15g, Phòng phong 10g, Khương hoạt 6g, Hoàng cầm 12g, Bán hạ 10g, Sinh kỳ 10g, Phục linh 12g, Cát căn 15g, Sinh khương 3 lát, Hồng táo 5 quả, dùng 5 tễ, sắc nước uống, ngày 1 tễ.
Khám lại ngày 27/2 bệnh nhân rất vui, mỗi đêm đã ngủ được 4-5 tiếng, thị lực cải thiện tốt, tình trạng chảy nước mũi vàng giảm ít, nhọt bọc trên mũi giảm, hết chuột rút bắp chân, dùng tiếp phương trên bỏ Cát căn gia Bạch truật 10g, dùng tiếp 7 tễ.
Do đường xa nên tự uống liên tục 10 tễ, đến ngày 12/3 mới khám lại, tình trạng cải thiện tốt, sắc mặt hồng nhuận, tâm trạng vui vẻ. Sau 10 tễ này đã ngủ được mỗi đêm 6-7 tiếng, thị lực tốt, tình trạng tắc mũi, chảy nước mũi vàng cải thiện tốt, chân hết lạnh, đại tiện thành khuôn. Dùng phương trên làm cơ sở gia thêm Phòng phong, Đan sâm, Ngân hoa. Hướng dẫn sử dụng thuốc ngắt quãng. Một thời gian sau bệnh nhân báo chỉ bị mất ngủ khi gắng sức, nhưng sau 1-2 tễ lại có thể cải thiện, tình trạng mất ngủ ngoan cố đã được trị khỏi sau 12 năm.
7/ Quế chi thang hợp Đạo đàm thang điều trị di trứng sau trúng phong
Nam 48 tuổi khám ngày 6/8/2009 vì đầu năm 2009 bị trúng phong (do huyết khối), sau khi điều trị bằng Tây y bệnh tình được khống chế và ra viện, nhưng vẫn còn di chứng là nói khó, phản ứng không linh hoạt, mặt tê dại, có cảm giác khó chịu trong tai, chảy máu chân răng, trong miệng dính nhớp, sáng dậy tiểu tiện khá vàng, cảm giác xương khớp khẩn trương, cơ đùi cứng, hoạt động bất lợi, động tác chậm chạp. Đã dùng thuốc Trung y và châm cứu điều trị nhưng hiệu quả không rõ rệt. Khi khám tôi biết đây là giáo viên thể dục cấp 2, trước khi phát bệnh có thói quen tắm nước lạnh sau khi vận động ra mồ hôi nhiều. Bệnh nhân cao 180cm, thể hình tráng kiện, nhưng sắc da vàng tối, không sáng nhuận, niêm mạc nhợt, lưỡi nhợt mà bệu, rêu trắng mỏng, mạch Phù mà Nhuyễn.
Phương dùng: Quế chi 10g, Sinh Bạch thược 10g, Chích thảo 5g, Chích viễn trí 6g, Bán hạ 15g, Phục linh 20g, Trần bì 6g, Liên kiều 15g, CHỉ thực 6g, Khương Trúc nhự 15g, Thiên nam tinh 6g, Thạch xương bồ 15g.
Sau khi dùng 12 tễ bệnh nhân tự cảm giác trong miệng không còn dính, mặt đỡ tê bì, đặc biệt trong tai không còn cảm giác khó chịu, các chứng trạng khác vẫn như cũ. Đổi dùng Quế chi gia Long cốt Mẫu lệ thang hợp Đạo đàm thang: Quế chi 10g, Sinh Bạch thược 10g, Chích thảo 5g, Long cốt và Mẫu lệ nung đều 15g, Sinh kỳ 15g, Bán hạ chế 10g, Phục linh 15g, Trần bì 6g, Chỉ xác 6g, Thiên nam tinh 6g, Liên kiều 12g, Thiên ma 10g.
Sau 12 tễ tự cảm giác bệnh tình cải thiện, tình trạng khớp xương khẩn cấp được hoãn giải, cơ vùng đùi cũng không còn căng cứng, sáng dậy nước tiểu vàng trong. Dùng phương trên làm cơ sở hơi gia giảm, kiên trì dùng thuốc, sau nửa năm chỉ còn hơi khó chịu khi thời tiết thay đổi, còn lại các chứng trạng cơ bản đã biến mất, phản ứng linh hoạt, vào mùa đông cũng không còn sợ lạnh, mùa hè không cần nằm điều hoà, giấc ngủ và ăn uống đều được cải thiện, tự cảm giác thể chất được tăng cường, đã có thể lên lớp. Sau đó dùng thêm Quế chi gia Hoàng kỳ thang và Ngũ linh tán, Đương quy Thược dược tán hợp phương cải thiện thêm 1 tháng.
8/ Quế chi gia Cát căn thang hợp Tứ diệu tán điều trị rụng tóc
Nam 32 tuổi, khám ngày 11/5/2010 vì phát hiện tóc rụng nhiều 1 tháng nay, bình thường tự cảm thấy vùng eo lưng lạnh, chân đau nhức, tăng nặng sau khi vận động, gáy cứng, “mộng trung tâm quý-tâm quý khi ngủ mơ”, đại tiện nát, thích ăn đồ ngọt, lưỡi đỏ nhợt, gốc lưỡi trắng dính, mạch Phù Huyền hơi Hoạt.
Phương dùng: Quế chi 10g, Bạch thược 15g, Chích thảo 5g, Cát căn 15g, Thương truật 15g, Hoàng bá 10g, Sinh ý dĩ 15g, Hoài ngưu tất 15g, Sinh khương 3 lát, Hồng táo 5 quả.
Sau 10 tễ: hết tâm quý khi mơ ngủ, chân không còn khó chịu, tình trạng rụng tóc được cải thiện. Chỉ còn eo lưng vẫn còn sợ lạnh, vẫn phải đắp chân kể cả ngày nóng. Tiếp tục cho dùng phương trên
9/ Quế chi gia Thược dược thang hợp Bảo hoà hoàn điều trị loét khoang miệng
Nam 34 tuổi khám ngày 13/1/2010 vì 2 năm nay thường xuyên xuất hiện loét khoang miệng, bình thường cảm giác trong miệng dính, chảy máu chân răng, ra nhiều mồ hôi, trung tiện nặng mùi, tay chân lạnh, 2 cẳng chân cảm giác co rút không thoải mái, sắc môi đỏ tím, lưỡi đỏ tím, rêu trắng mỏng, mạch Phù. Thể hình hơi gầy, sắc mặt không đẹp, thường cảm giác mệt mỏi, tinh thần ủ rũ, hiệu quả làm việc không cao.
Phương dùng: Quế chi 10g, Bạch thược 20g, Chích thảo 5g, Bán hạ 10g, Phục linh 10g, Trần bì 6g, Liên kiều 15g, Thần khúc 15g, Sơn tra 15g, Sinh khương 3 lát, Hồng táo 3 quả, dùng 5 tễ.
Khám lại ngày 20/1 sắc mặt có cải thiện, hết loét miệng, miệng đỡ hôi, hết đạo hãn, 2 cẳng chân không còn khó chịu, đỡ cảm giác mệt mỏi, lưỡi đỏ, rêu mỏng, mạch Phù. Dùng tiếp phương trên giảm liều tiếp tục điều trị thêm 14 tễ.
10/ Quế chi gia Thược dược thang hợp Bảo hoà hoàn điều trị thấp chẩn mạn tính
Nữ 11 tuổi khám ngày 12/12/2007 vì sưng mộng răng đau đớn tái đi tái lại hơn 1 năm. Khi khám quan sát thấy da bệnh nhân trắng, hình thể hơi gầy, tay chân thường sợ lạnh,lòng bàn tay sắc tím tối, nhưng môi đỏ, vùng chân răng hàm trên bên trái sưng đau, miệng hôi, đồng thời quan sát thấy vùng da khoảng 4x4〖cm〗^2 ở khuỷ 2 tay, vùng da ở mặt trước ngoài cẳng chân trái khoảng 5x8〖cm〗^2 và cẳng chân phải khoảng 3x4〖cm〗^2 có bì chẩn, da vùng này tăng sinh dầy lên, sắc đỏ tối, có nhiều vết cào xước, ít vảy máu và dịch huyết tương. Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡng trắng mỏng mà khô, mạch Phù Hoạt. Hỏi thêm thì biết thường ra rất nhiều mồ hôi, đau dạ dày, nhưng tự có thể hoãn giải, bì chẩn ngứa rất khó chịu, tăng nặng vào ban đêm, ảnh hưởng đến giấc ngủ, ăn uống tốt, thích đồ ngọt, nhị tiện bình thường. Lúc đó bệnh nhân đến khám vì sưng mộng răng, nhưng vì chứng bì chẩn đã điều trị ở nhiều nơi kể cả viện da liễu cũng không hiệu quả nên cân nhắc điều trị cùng luôn.
Phương dùng: Quế chi 6g, Bạch thược 12g, Sinh thảo 6g, Thần khúc 15g, Sơn tra 15g, Phục linh 10g, Bán hạ chế 10g, Trần bì 6g, Liên kiều 15g, Hoàng cầm 10g, Sinh khương 3 phiến, Hồng táo 4 quả, dùng 5 tễ ngày 1 tễ.
Sau 1 tuần khám lại: sau 1 tễ tình trạng sưng mộng răng giảm nhẹ, sau 5 tễ thì hết sưng đau, trong vị không có vị giác đặc biệt, tình trạng ra mồ hôi giảm, cảm giác bì chẩn ngứa cũng được hoãn giải. Sau khi dùng tiếp 14 tễ, phạm vi bì chẩn ở tứ chi thu nhỏ, đặc biệt là ở 2 tay, bệnh giảm được 7/10, sắc do ở vùng bì chẩn đỏ nhợt, tình trạng ngứa tiếp tục giảm, nửa đêm có nghiến răng, ra mồ hôi hơi nhiều. Dùng tiếp phương trên bỏ Trần bì, gia Long cốt và Mẫu lệ nung đều 15g, Hậu phác 10g, Tô ngạnh 10g. Sau khi dùng 20 tễ, hết nghiến răng, vùng bì chẩn ở 2 tay biến mất, ở 2 chân thu gọn lại còn ít. Sau uống tiếp 15 tễ, bì chẩn khỏi hoàn toàn. Theo dõi 1 năm chưa tái phát.
Tổng kết: các trường hợp trên đều là các trường hợp được chữa khỏi bằng Quế chi thang hoặc Quế chi thang gia Thược dược thang làm phương cơ bản, phối với các phương khác. Đặc điểm chung của những trường hợp này là
+ Bệnh kéo dài, tái đi tái lại không khỏi
+ Ngoại hình chủ yếu là tráng thực, cũng có yếu nhược, nhưng đều có sắc mặt sạm mà không sáng nhuận, sắc lưỡi đa phần tối nhợt, ít có lưỡi đỏ.
+ Toàn thân mệt mỏi, tinh lực bất túc
+ Vào mùa đông thì tay chân lạnh hoặc sợ gió lạnh, gặp lạnh dễ đau bụng, nhạy cảm với phấn hoa, bụi, dễ hắt hơi.
+ Không thích uống lạnh, đa phần thích ăn đồ ngọt
+ Đại tiện đa phần hơi nát
+ Có tình trạng đau ở bộ vị kinh Thái dương Bàng quang, cẳng chân dễ co rút
+ Mạch đa phần Phù mà Tế, hoặc Phù Đại vô lực
+ Thói quen sinh hoạt không tốt, như ngồi nhiều ít hoạt động, thường uống rượu bia, ra mồ hôi tắm nước lạnh, hoặc dội nước lạnh lên đầu, công việc vất vả,…
Các đặc điểm tên là thể chất đặc trưng của Quế chi thang (trung tiêu hư nhược, âm dương vinh vệ lưỡng thương). Sự hình thành thể chất này đã được mô tả trong cuốn <Trung y thập đại loại phương> của Hoàng Hoàng giáo sư: “hình thể thiên sưu, bì phu bỉ giác bạch, văn lý bỉ giác tế…”, nhưng cũng hình thành ở người có thể chất khoẻ mạnh mà có thói quen sinh hoạt không điều độ trong thời gian dài, hình thành nên “cốt nhược cơ phu thịnh” của “tôn vinh nhân”. Do đó thông qua Quế chi thang hoặc Quế chi thang biến phương (QUế chi gia Cát căn thang, Quế chi tân gia thang, Quế chi gia Hậu phác Hạnh tử thang, Quế chi gia Long cốt Mẫu lệ thang, Quế chi gia Đại hoàng thang), nếu “trung hư-trung tiêu hư” thì dùng Quế chi gia Thược dược thang (Tiểu kiến trung thang, Đương quy Kiến trung thang) làm phương tễ cơ sở mà phối hợp điều trị mà đạt được hiệu quả tốt. Trong những năm gần đây, trên lâm sàng tôi thường dùng các phương tễ chủ yếu như Bán hạ Hậu phác thang, Hoàng cầm thang, Tứ nghịch tán, Bảo hoà hoàn, Tứ diệu hoàn, Ngọc bình phong tán,.v.v…xem thêm ở bảng sau:
| Phương dùng | Nguồn gốc | Bệnh cơ | Kiêm bệnh kiêm chứng |
|---|---|---|---|
| Bán hạ Hậu phác thang | Kim quỹ | Đàm khí giao trở | Phúc tả mạn tính, háo suyễn, biểu hiện là hung muộn, trong họng có dị cảm, khí suyễn, bụng trướng, dễ bị phúc tả khi thay đổi tâm trạng, chán ăn |
| Hoàng cầm thang | Thương hàn luận | Đởm nhiệt | Phúc thống, phúc tả, miệng khô |
| Tứ nghịch tán | Thương hàn luận | Dương uất | Mồ hôi ban đầu ra nhiều sau ít, bụng trướng, phúc tả, mạch Phục |
| Quế chi Phục linh hoàn | Kim quỹ | Hạ tiêu ứ huyết | Thiếu phúc v… |
| còn tiếp . . . |

Đăng nhận xét