-->

Nguy hiểm! Thiếu âm bệnh xuất hiện hạ lợi đa phần là tử chứng


Theo như hệ thống y học Kinh phương của Hồ Hi Thứ, thì có 3 bộ vị và 2 bệnh tính tạo thành 6 chẩn đoán gọi là Lục kinh. Chúng ta đều biết rằng, tử chứng đa phần là lý chứng, đa phần là âm chứng, do đó tử chứng thường biểu hiện ở lý âm chứng của Thái âm bệnh. Dựa trên quan sát chúng ta thấy tử chứng xuất hiện ở Thiếu âm thiên nhưng thực ra nó là vấn đề về Thái âm bệnh.

“Hạ lợi thanh cốc hợp tử nhân-chứng hạ lợi thanh cốc hay gặp ở người sắp chết?”, đó là Tứ nghịch thang chứng.

Điều 91: Thương hàn, y hạ chi, liền đắc hạ lợi, thanh cốc bất chỉ, thân đông thống giả, cấp đáng cứu lý; hậu thân đông thống, thanh tiện tự điều giả, cấp đáng cứu biểu. Cứu lý nghi Tứ nghịch thang, cứu biểu nghi Quế chi thang. 

Điều 372: hạ lợi phúc trướng mãn, thân thể đông thống giả, tiên ôn kì lý, nãi công kì biểu. Ôn lý nghi Tứ nghịch tahng, công biểu nghi Quế chi thang. 

Trọng Cảnh sao lại nhấn mạnh vào “cấp đáng cứu lý” ? nếu không nhanh chóng cứu biểu thì sẽ xảy ra kết quả thế nào? Cổ đại không có truyền dịch, bổ sung dịch thể, do đó khi có chứng hạ lợi bất chỉ, mất nước, bệnh nhân nhanh chóng tử vong vì sốc, do đó Trọng Cảnh rất nhấn mạnh vào điều trị hạ lợi

Thiếu âm bệnh mà có xuất hiện chứng hạ lợi thì không còn là chứng đơn thuần của Thiếu âm bệnh, mà là Thiếu âm hợp tính Thái âm. Hạ lợi làm thương tổn tân dịch, dương khí, cho nên đa phần hiện tử chứng.

Nội dung dưới đây được trích ra từ cuốn <Kinh phương biểu chứng> của Mã Gia Câu lão sư.

Điều 295: Thiếu âm bệnh, ố hàn, thân quyện nhi lợi, thủ túc nghịch lãnh giả, bất trị.

Điều 294: Thiếu âm bệnh, đãn quyết vô hãn, nhi cường phát chi, tất động kì huyết, vị tri tòng hà đạo xuất, hoặc tòng khẩu tị, hoặc tòng mục xuất giả, danh viết hạ quyết thượng kiệt, vi nan trị.

Thiếu âm bệnh, xuất hiện chứng ố hàn, thân thể co rút, hạ lợi, thủ túc nghịch lãnh, kì thực là trọng chứng của Tứ nghịch thang, tuy nhiên có Thiếu âm bệnh (biểu âm chứng) nhưng cũng không thể giải biểu được. Chỉ có thể dùng Thông mạch Tứ nghịch thang điều trị hoặc có thể cứu 1 trong 2. Do là bệnh tình nghiêm trọng, do đó điều trị khó có hiệu quả. Tương đối mà nói thì dương chứng, biểu chứng dễ chữa, còn âm chứng, lý chứng thì khó chữa. Do đó những “nguy trọng chứng” thường gặp ở lý âm chứng của Thái âm bệnh, như Tứ nghịch thang chứng. Nội kinh nói: “trị ngũ tạng giả, bán tử bán sinh dã”. Một khi bệnh nhân ICU có “nguy trọng chứng” ở mức độ nặng thì kể cả Trọng Cảnh có biện chứng chính xác thì điều trị cũng khó đạt kết quả tốt. Nó  nhắc nhở chúng ta rằng ngay ở giai đoạn Thiếu âm bệnh nên được tích cực điều trị để ngăn chặn bệnh biến thành Thái âm bệnh.

Như điều 294 này, chứng quyết là biểu hiện của tứ nghịch, đã là biểu hiện của dương hư, tức là chứng vô hãn của biểu chứng này là do dương hư tân dịch hư, do đó không thể cưỡng bách phát hãn, nếu cưỡng bách phát hãn sẽ dẫn đến xuất huyết (thương tân dịch), do đó khi có chứng hạ quyết (tứ nghịch) thượng kiệt (xuất huyết) là khó trị.

Điều 296: thiếu âm bệnh, thổ lợi phiền táo, tứ nghịch giả tử.

Chứng “thổ, lợi, phiền táo” ở điều này tương tự như chứng “lợi bất chỉ, can ẩu, phiền” ở điều 315, là âm thịnh cách dương, chân hàn giả nhiệt, nhấn mạnh phải dùng Thông mạch Tứ nghịch gia Trư đởm chấp thang làm chủ. TỨ nghịch là tứ chi nghịch lãnh, là phản ánh tình trạng dương khí suy vi, không thể quán chú ra tứ phía, cũng là chứng sốc trong y học hiện đại, lại có xuất hiện phiền táo, là chứng cách cự. Bệnh tình nguy trọng, điều trị khó có hiệu quả, do đó nói tứ nghịch thì chết.

Điều 297 thiếu âm bệnh, hạ lợi chỉ nhi đầu huyễn, thời thời tự mạo giả tử.

Thiểu âm bệnh, hạ lợi. Thiếu âm bệnh là bản thân đã có tân dịch bất túc, hạ lợi sẽ lại càng thương tổn tân dịch. Sao lại “lợi chỉ-chứng hạ lợi cầm lại” ? Điều này giống với chứng “ố hàn, mạch vi nhi phục lợi, lợi chỉ vong huyết dã, Tứ nghịch gia Nhân sâm thang chủ chi” ở điều 385. Đó là do tân dịch huyết dịch cùng một nguồn gốc, tân dịch bị tổn thương rõ rệt thì đâu còn tân dịch rót xuống nữa thì đương nhiên chứng hạ lợi sẽ tự cầm. Đồng thời khi này khí cơ thượng xung mà có biểu hiện hoa mắt chóng mặt, cũng là dựa trên cơ sở âm chứng kèm có biểu hiện của thuỷ ẩm thượng nghịch. Âm chứng đa phần kèm theo có thuỷ ẩm, thuỷ ẩm đa phần biểu hiện ở âm chứng. Do là “hạ lợi chỉ”, là tân dịch hư tổn rõ ràng, không thể đưa được xuống dưới mà hạ lợi tự chỉ, đó là nguy trọng chứng, cho nên nói là chết.

Điều 300 thiếu âm bệnh, mạch Vi Tế Trầm, đãn dục ngoạ, hãn xuất bất phiền, tự dục thổ, chí ngũ llujc nhật tự lợi, phục phiền táo, bất đắc ngoạ sàng nhi tử. 

Thiếu âm bệnh, mạch Vi Tế Trầm, chỉ muỗn nằm, đều là phù hợp với mục tiêu chẩn đoán của âm chứng, xuất hiện ra mồ hôi, việc ra mồ hôi mà hạ lợi đều có thể dẫn đến tân dịch dương khí càng hư, khi đó không phiền thì đó không phải biểu hiện của chứng cách cự. Nhưng “đãn dục thổ, chí ngũ lục nhật tự lợi”, đó là thượng thổ hạ lợi, là tình trạng tân dịch dương khí tổn thương thêm một bậc nữa, xuất hiện “phiền táo, bất đắc ngoạ” là biểu hiện của chân hàn giả nhiệt, âm thịnh cách dương, bệnh tình nguy trọng, cho nên nói là chết.

Thiếu âm bệnh bản thân đã là âm  chứng, tân dịch bất túc, lại thêm thượng hãn, thổ, hạ thì càng tổn thương tân dịch dương khí, càng khiến nó trở nên tồi tệ, hãm nhập vào nguy trọng chứng, biểu hiện là ố hàn, thân thể nằm co, hạ lợi, mạch Vi, tứ nghịch. Theo điều văn trên mô tả thì đó là chứng hậu của dương hư trọng chứng, tứ nghịch là tiêu chí điển hình, khi xuất hiện tứ nghịch, thường là tiêu chí của dương khí tân dịch hư tổn rõ rệt, bệnh tình nguy trọng, đa tử bất trị. Cần phản xác định mức độc của tứ nghịch mà dùng Tứ nghịch thang hoặc Thông mạch Tứ nghịch thang để điều trị, nhưng cũng chỉ là bán sinh bán tử. Nhưng cũng không thể cứ gặp tứ nghịch là dùng ngay Tứ nghịch thang, mà cần phải biện chứng phù hợp với âm chứng, phù hợp với bệnh cơ của Tứ nghịch thang thì mới có thể dùng được Tứ nghịch thang. Bệnh nặng thì dùng đại tễ, nhẹ thì dùng tiểu tễ của Tứ nghịch thang. 

Trên lâm sàng chứng hậu của âm chứng trọng chứng mà có biểu hiện phiền táo, cái gắt, phát nhiệt, mặt đỏ của thực chứng, biểu hiện của nhiệt chứng, hoặc nếu xuất hiện chứng trạng tương tự thì cần làm rõ xem có phải chứng cách cự của âm thịnh cách dương, dương khí muốn thoát hay không, đó đều là biểu hiện của bệnh tình nguy trọng, thời xưa chỉ có cách dùng Tứ nghịch thang hoặc Thông mạch tứ nghịch thang chứ cũng không có cách nào khác nên nói đa phần là tử chứng. Cho đến ngày nay, hầu hết các bệnh nhân nặng nói trên chỉ có thể thấy được ở ICU. Với các phương pháp hỗ trợ sự sống hiện đại của Tây y, nó đã không hẳn còn là tử chứng. Chúng ta không thể từ chối việc điều trị Tây y tương ứng cũng như có thể điều trị kết hợp Đông Tây y được.

0/Post a Comment/Comments