-->

Lục kinh biện chứng


1/ Kinh phương là gì ?

Gọi là kinh phương cũng tức là phương kinh nghiệm, là phương tễ đã được chứng minh nhiều lần trong quá trình thực nghiệm của những người đi trước. 

Hàm nghĩa của Kinh phương trong giới y học có chia làm 2 quan điểm: một là đề cập đến các phương thuốc hiệu nghiệm trước thời nhà Tống, hai là các phương tễ trong <Thương hàn tạp bệnh luận> của Trọng Cảnh. 

2/ Trọng Cảnh là truyền nhân kiệt xuất của Kinh phương

Xem cuốn <Hán thư. Nghệ văn chí> có ghi “kinh phương thập nhất gia”, đã thuật lại việc phân loại bệnh tật và phân loại lý luận phương tễ, như <Thang dịch kinh pháp> 32 quyển. Mặc dù những cuốn sách này đều đã thất lạc, nhưng vẫn còn cuốn sách tồn tại sớm nhất là <Hoàng đế nội kinh>, trong đó có luận thuật đến nguyên tắc điều trị, phương pháp điều trị, phép tổ hợp, phối ngũ và cấm kỵ trong phương dược. Điều này đã được xác minh ở thời xuân thu chiến quốc, sự hình thành của phương tễ là từ sự chỉ đạo thực chiến của lý luận cơ bản. Cho đến thời Đông Hán Trương Trọng Cảnh,  “siêng năng tìm kiếm các giáo lý cổ xưa và học hỏi từ tất cả các loại đơn thuốc”, ông đã lập thành cuốn “Thương hàn tạp bệnh luận”, tích hợp một cách sáng tạo giữa lý thuyết, phương, pháp, dược, và bảo tồn các đơn thuốc cổ điển trong những cuốn sách bị thất lạc. Cho nên hậu thế coi cuốn này là “phương thư chi tổ”, ca ngợi kinh phương là “đối bệnh chân phương”. Theo đó mà hình thành nền móng và sự phát triển của phương tễ học.

3/ Biện chứng thi trị là lý luận chỉ đạo để vận dụng kinh phương.

Để vận dụng chính xác kinh phương, tất yếu phải năm vững cách biện chứng thi trị của Trung y. Biện chứng thi trị là cái gì? Trong cuốn <Thương hàn tạp bệnh luận> của Trọng Cảnh (tức <Thương hàn luận> và <Kim quỹ yếu lược phương luận>) là phạm trù kinh điển của biện chứng thi trị. Xét trong <Thương hàn luận> không chỉ luận trị về thương hàn, mà còn đại pháp chữa vạn bệnh thông qua điều trị thương hàn. Do đó trong <Thương hàn luận> không chỉ có các quy tắc chung về phân biệt bệnh và điều trị mà còn có các phương pháp áp dụng để thực hiện phân biệt và điều trị bệnh cụ thể. 

Đầu tiên chứng ta hãy nói về quy luật chung về phân biệt và điều trị hội chứng:

<Thương hàn luận> chia thành lục kinh, như “biện thái dương bệnh mạch chứng tịnh trị thượng”, “biện thái dương bệnh mạch chứng tịnh trị trung”, “biện thái dương bệnh mạch chứng tịnh trị hạ”, “biện dương minh bệnh mạch chứng tịnh trị”, “biện thiếu dương bệnh mạch chứng tịnh trị”, “biện thái âm bệnh mạch chứng tịnh trị”, “biện thiếu âm bệnh mạch chứng tịnh trị”, “biện quyết âm bệnh mạch chứng tịnh trị”. Mà trong các điều văn không ngừng biện về bát cương, như trong phần luận về điều 7 (số điều dựa trên bản <Thương hàn luận> đời nhà Tống>) có ghi: “bệnh hữu phát nhiệt ố hàn giả, phát ư dưỡng dã; vô nhiệt ố hàn giả, phát ư âm dã,…” là biện về âm dương, điều 70 ghi: “phát hãn hậu ố hàn giả, hư cố dã; bất ố hàn đãn nhiệt giả, thực dã…” là biện về hư thực; điều 91 ghi: “thương hạ, y hạ chi, tục đắc hạ lợi thanh cốc bất chỉ, thân đông thống giả, cấp đáng cứu lý; hậu thân đông thống, thanh tiện tự điều giả, đáng cứu biểu….” là biện về biểu lý, điều 122 ghi: “bệnh nhân mạch Sác, Sác vi nhiệt, đáng tiêu cốc dẫn thực, nhi phản thổ giả, thử dĩ phát hãn, lệnh dương khí vi, cách khí hư, mạch nãi Sác dã. Sác vi khách nhiệt, bất năng tiêu cốc, dĩ Vị trung hư lãnh, cố thổ dã” là biện về hàn nhiệt. Và còn nhiều điều  khác nữa. Do đó có thể thấy Lục kinh và Bát cương là 1 quy luật trong biện chứng. 

Bát cương là gì? Bát cương là nói về biểu, lý, âm, dương, hàn, nhiệt, hư, thực. Kì thực giữa biểu và lý còn có bán biểu bán lý, thế nên chính xác mà nói thì phải là cửu cương. Khi nói biểu lý mà bán biểu bán lý thì nằm ở giữa, nên theo thói quen vẫn gọi là Bát cương. 

Biểu và Lý cùng với Bán biểu bán lý: biểu là chỉ về phần bên ngoài của cơ thể, tức là bì phu, cơ nhục, cân cốt là các thành phần cấu tạo nên lớp vỏ bên ngoài của cơ thể. Nếu bệnh tà tập kích ở bộ vị này gây ra các phản ứng của cơ thể thì gọi là biểu chứng. Lý chứng là “lý diện-phương diện bên trong cơ thể”, bao gồm: đường tiêu hoá, Vị, tiểu trường, đại trường,v.v…và các thành phần cấu tạo nên đường tiêu hoá. Nếu bệnh tà tập trung ở đây gây ra các phản ứng của cơ thể thì gọi là lý chứng. Bán biểu bán lý là chỉ phần “biểu chi nội, lý chi ngoại”, tức là 2 khoang lớn ở ngực và bụng, là “tạng khí sở tại chi địa-là lãnh địa của các tạng khí, là nơi các tạng khí nằm”. Nếu bệnh tà tập kích vào đây gây ra các phản ứng của cơ thể thì gọi là bán biểu bán lý. Lấy 3 chữ “biểu, lý, bán biểu bán lý” là chỉ ra những phản ứng của bộ vị cố định. Cũng có thể nói rằng, bất luận là bệnh gì, nếu như thấy bệnh vị phản ứng hoặc là biểu, hoặc là lý, hoặc bán biểu bán lý. Đương nhiên cũng có khi có 2 bộ vị thậm chí cả 3 bộ vị cùng biểu hiện, nhưng tuyệt đối không vượt quá 3 phạm vi này.

Âm và dương: âm tức “âm tính”, dương tức “dương tính”. Con người khi bị bệnh ắt sẽ ảnh hưởng đến sự biến đổi công năng. Trước tiên là thay đổi chức năng “đại tạ-trao đổi chất”. Sự biến đổi này sẽ là thái quá hoặc bất cập so với chức năng thông thường. Nếu là thái quá thì bệnh nhân sẽ có phản ứng kháng tiến, hưng phấn tương ứng, khi này sẽ gọi là dương chứng. Nếu là bất cập thì bệnh nhân sẽ có sự suy thoái về phản ứng, tiêu trầm,…khi này gọi là âm chứng. Do đó, tật bệnh tuy biến hoá phức tạp, nhưng theo chứng mà nói thì không thuộc ở âm thì thuộc ở dương.

Hàn và nhiệt: hàn tức là hàn tính, nhiệt tức là nhiệt tính. Nếu như bệnh nhân có phản ảnh của hàn tượng thì gọi là hàn chứng. Trái lại, có phản ánh của nhiệt tượng thì gọi là nhiệt chứng. Hàn nhiệt và âm dương có mối quan hệ với nhau, han là bất cạp, đáng thuộc vào âm, mà nhiệt là thái quá, đáng thuộc vào dương. Cần chú ý: hàn và nhiệt chỉ là 1 đặc tính của âm dương. Do đó khi nói âm thì không nhất định là hàn, khi nói là dương thì không nhất định là nhiệt. Do đó biết rằng bệnh có thể không hàn không nhiệt nhưng tuyệt đối không thể bất âm bất dương được.    

Hư và thực: hư là “hư nhân-người hư yếu”, thực là “bệnh thực”. Nếu như bệnh chưa khỏi hẳn mà tinh lực bệnh nhân đã suy kiệt thì sẽ phản ánh các biểu hiện của hư suy, tức là cái gọi là hư chứng. Nếu như bệnh thế phát triển mà tinh lực người bệnh chưa suy, bệnh phản ánh sung thực thì đó là cái gọi là thực chứng. Như trên mô tả thì hư thực và hàn nhiệt cũng chỉ là 1 loại đặc trưng của âm dương. “Bất quá, hàn nhiệt hữu thường, mà hư thực vô thường”. Sở dĩ nói “hàn nhiệt hữu thường” là vì “hàn giả ắt âm”, “nhiệt giả ắt dương”, trong bất kì trường hợp nào nó cũng không thay đổi. Nhưng hư thực thì không như vậy, có những lúc nó cùng với hàn nhiệt giao thoa thác tạp mà biểu hiện ganh đua với âm dương, không thể phân biệt âm dương cho nên nói vô thường. Nếu như hư mà hàn thì đương nhiên là âm, nhưng nếu hư mà nhiệt thì trái lại là dương; thực mà nhiệt thì đương nhiện làm dương, nhưng thực à  hàn thì trái lại là âm. Do đó khi gọi là dương chứng, cũng có thể hoặc là nhiệt, hoặc là thực, hoặc cũng nhiệt cũng thực, hoặc không nhiệt không thực, hoặc nhiệt mà hư vậy. Khi gọi là âm chứng, thì có thể hoặc là hàn, hoặc là hư, hoặc cũng hàn cũng hư, hoặc không hàn không hư, hoặc hàn mà thực vậy. Trên đây là khái quát về Bát cương, cần phải phân biệt rõ ràng.

Lục kinh là gì? Lục kinh là chỉ Thái dương, Dương minh, Thiếu dương của tam dương và Thái âm, Thiếu âm, Quyết âm của tam âm. Lục kinh trong <Thương hàn luận> tuy gọi là “chi vi bệnh”, nhưng thực chất là chứng trạng được xác định thông qua Bát cương. Đây là những vấn đề then chốt không được phép nhầm lẫn. Do là Biểu, Lý và Bán biểu bán lý là 3 “bệnh bị” phản ứng, mà âm, dương, hàn, nhiệt, hư, thực là 6 phản ứng của “bệnh tính”. Như vậy thì biểu dương nhiệt thực tức là Thái dương; biểu âm hàn hư tức là Thiếu âm, lý dương nhiệt thực tức là Dương minh; lý âm hàn thực tức là Thái âm; bán biểu bán lý của dương nhiệt thực tức là Thiếu dương, bán biểu bán lý của âm hàn hư tức là Quyết âm. Đó là bệnh tính phản ứng ở bệnh vị, mà bệnh vị cũng ắt theo phản ứng của bệnh tính mà phản ánh. Do đó không có bệnh tính thì không thể nói bệnh vị, mà không có bệnh vị thì cũng không thể nói bệnh tính. Do đó khi nói biểu chứng, lý chứng, bán biểu bán lý chứng át sẽ phải kèm theo có hoặc âm, hoặc dương, hoặc hàn, hoặc nhiệt, hoặc hư, hoặc thực là chứng trạng phản ánh.  Cũng như vậy, khi có chứng của âm, dương, hàn, nhiệt, hư, thực thì đồng thời cũng sẽ kèm theo chứng trạng phản ánh hoặc biểu, hoặc lý, hoặc bán biểu bán lý. Cần phải lưu ý rằng hàn, nhiệt, hư, thực đều thuộc vào âm dương. Như thế thì bất luận là biểu, lý, bán biểu bán lý cũng sẽ chia làm 2 loại chứng trạng phản ánh theo âm dương khác nhau, 3x2=6, tức là chia thành 6 loại hình cơ bản. Đó là cái mà <Thương hàn luận> gọi là “lục kinh bệnh”. Vậy nên không còn nghi ngờ việc Lục kinh có nguồn gốc từ Bát cương nữa.

Mối quan hệ giữa Lục kinh và Bát cương được mô tả ở trên. Vận dụng trên lâm sàng là “bệnh hiện chi chứng, tất hữu bệnh vị, phục hữu bệnh tính, cố bát cương chỉ hữu trừu tượng, nhi lục kinh nãi cụ thực hình – khi bệnh có hiện chứng, thì ắt xác định được bệnh vị, xem xét lại bệnh tính, cho nên Bát cương là nói trừu tượng còn Lục kinh là hình tượng thực tế cụ thể. Cũng chính vì vậy biện chứng trên lâm sàng nên bắt nguồn từ Lục kinh. <Thương hàn luận> phân chia theo lục kinh, cũng vì đạo lý này. Khi biện theo lục kinh thì cần phân biệt biểu lý (định vị) và phán xét âm dương (định tính). Sau đó tiến hành phân tích tiếp hàn nhiệt hư thực (tiến hành thêm 1 lần định tính). Khi biện âm dương đã rõ ràng thì Lục kinh và Bát cương khi này không còn có ẩn tình, tiếp hành đình trị theo nguyên tắc. Như bệnh ở biểu thì phép trị là phát hãn; bệnh lý thì phép trị hoặc thanh nhiệt, hoặc công hạ, hoặc tiêu, hoặc ôn, hoặc bổ; bệnh tại bán biểu bán lý thì dùng phép hoà giải. 

Nói tiếp về các biện phát cụ thể để phân biệt và điều trị hội chứng:

Biện chứng thi trị là các biện pháp điều trị cụ thể dựa trên sự vận dụng phương chứng. Vậy phương chứng là gì? Phương chứng là chứng thích hợp dùng của phương tễ, mỗi phương tễ lại có chứng thích hợp tương ứng, đó là cái gọi là phương chứng. Trong phần luận đề cập đến Quế chi thang, Sài hồ thang là lấy tên phương dựa theo chứng “phạm lệ-kiểu mẫu-điển hình”. Do đó, biện phương chứng là ứng dụng cụ thể dưới sự chỉ đạo của quy luật chung trong Lục kinh và Bát cương. Ví dụ: Thái dương bệnh là phản ánh “dương tính chứng-dương chứng” do bệnh tà nằm ở bộ vị biểu, phép trị phù hợp là phát hãn. Nhưng phương tễ phát hãn có rất nhiều, liệu có phải phương nào cũng có hiệu quả? Đương nhiên là không. Khi đó, để có được hiệu quả chữa bệnh như mong đợi thì cần phải xác định kỹ phương chứng thì mới có thể đưa ra phương thuốc phù hợp. Chẳng hạn như Thái dương bệnh, nếu có biểu hiện phát nhiệt, hãn xuất, ố phong, mạch Phù thì là Quế chi thang chứng, tức là dùng Quế chi thang có thể trị khỏi; nếu có biểu hiện phát nhiệt, vô hãn, toàn thân đau nhức, ố phong mà suyễn, mạch Khẩn thì là Ma hoàng thang chứng, tức là dùng Ma hoàng thang có thể trị khỏi; nếu có biểu hiện gáy lưng cứng cấp, vô hãn, ố phong, là Cát căn thang chứng, tức là dùng Cát căn thang có thể trị khỏi; nếu có ố hàn, phát nhiệt, thân thể đau nhức, vô hãn mà phiền táo thì là Đại thanh long thang chứng, tức là dùng Đại thanh long thang có thể trị khỏi.v.v…Các phương trên, mặc dù đều là phương phát hãn của Thái dương bệnh, nhưng mỗi phương lại có chỉ định cụ thể, nếu không xác định được chứng trạng phù hợp mà dùng thì không những không có tác dụng mà còn có hại, nhẹ thì xuất hiện biến chứng, nặng thì ảnh hưởng tính mệnh, đó là cái trong phần luận gọi là “thường tu thức thử, vật lệnh ngộ dã”. Do đó có thể thấy biện phương chứng là phần tiếp theo của Lục kinh, Bát cương biện chứng, Nó không chỉ thực hiện cụ thể của phép biện chứng mà còn là những kỹ năng cơ bản của phép biện chứng. Do đó phương chứng là đỉnh nhọn của biện chứng. Do là Trung y điều trị có lúc không hiệu quả, nguyên nhân thì nhiều, nhưng quan trọng nhất vẫn là biện phương chứng có chính xác hay không. Về phương chứng thì có rất nhiều, tất cả đều có thể tìm thấy trong <Thương hàn luận> và <Kim quỹ yếu lược phương luận>. 

4/ Làm thế nào để nắm vững kinh phương  

Vấn đề này liên quan đến việc phân loại kinh phương như thế nào? Có nhiều loại hình phân loại kinh phương nhưng đại khái không quá 3 loại sau:

(1/ Phân loại nguyên gốc theo 2 cuốn <Thương hàn luận> và <Kim quỹ yếu lược phương luận>, có thể xem trong 2 cuốn này nên không nhắc lại ở đây.

(2/ Căn cứ vào chứng để phân loại

(3/ Phân loại theo nhóm phương tễ. 

Hai loại cuối rất dễ thực hiện và khá thực tế, vì thế sẽ giới thiệu ngắn gọn ở đây:

1/ Phân loại theo chứng

Chứng trạng nói ở đây không phải là một chứng cá biệt mà là chứng trạng phản ứng ở bộ vị cố định. Cũng tức là biểu chứng, lý chứng và bán biểu bán lý chứng. Cụ thể như sau:

1.1/ Biểu chứng loại biểu chứng, là chỉ vào chứng của Thái dương bệnh chứng và Thiếu âm bệnh chứng trong <Thương hàn luận>. Hai loại bệnh chứng này tại sao lại gọi là biểu chứng? Khi phân tích các phương diện của điều văn thì tự nhiên sẽ rõ câu trả lời.

Như điều 1 trong <Thương hàn luận> nói “thái dương chi vi bệnh, mạch Phù, đầu hạng cường thống nhi ố hàn”. Đây tức là nói Thái dương bệnh không chỉ là 1 chứng cá biệt, mà là 1 nhóm chứng trạng đặc trưng bởi mạc Phù, đầu hạng cường thống nhi ố hàn. Tức là nói bất luận là bệnh gì, nếu có nhóm chứng trạng: “mạch Phù, đầu hạng cường thống nhi ố hàn” thì đều gọi là Thái dương bệnh.

Điều 2 nói: “thái dương bệnh, phát nhiệt, hãn xuất, ố phong, mạch Phù giả, danh vi trúng phong”, điều này tức là dựa trên mô tả về Thái dương bệnh, nếu đồng thời lại thấy có “phát nhiệt hãn xuất, ố phong mà mạch Hoãn Nhược” thì gọi là Trúng phong. 

Điều 3 nói: “Thái dương bệnh, hoặc dĩ phát nhiệt, hoặc vị phát nhiệt, tất ố hàn, thân thống, ẩu nghịch, mạch âm dương câu khẩn giả, danh vi Thương hàn”. Đây là nói dựa trên mô tả về Thái dương bệnh, bất luận là đã trải qua “phát nhiệt” hay chưa, nhưng ắt sẽ có “ố hàn”, nếu đồng thời lại thấy có “thân thể đông thống, ẩu nghịch, mạch thốn quan xích đều Khẩn” thì gọi là Thương hàn. 

Do đó có thể thấy rằng, Trúng phong và Thương hàn là 2 loại bệnh chứng khác nhau của Thái dương bệnh. Trước thì do ra mồ hôi khiến cơ thể nhạy cảm với gió mà thành “ố phong”, do đó gọi là Trúng phong; sau thì do “vô hãn” mà không sợ gió, hoặc hơi sợ gió, nhưng lại rất sợ lạnh, do đó gọi là Thương hàn. Bất quá gọi phong là trúng, gọi hàn là thương, thực ra cũng không phải là không có thâm ý. Thái dương bệnh, tức là cơ thể muốn dựa vào cơ chuyển của phát hãn mà bệnh giải trừ ngay ở biểu, nhưng năng lực tự nhiên của cơ thể bị giới hạn, hoặc tuy có ra được mồ hôi nhưng tà trái lại nhân lúc ra mồ hôi mà len lỏi vào chỗ hư yếu ở cơ phu. “Trung giả trung ư nội”, gọi là Trúng phong, cũng tức là tà đã thâm nhập được vào trong biểu.

Hoặc không ra mồ hôi mà bệnh tà tập kết ở cơ biểu, chỉ là không có mồ hôi mà bài xuất ra ngoài. “Thương giả thương ư ngoại”, gọi là Thương hàn, tức là tà nhiễu tập ở biểu. Trúng phong và Thương hàn đều thuộc “chứng danh-tên của chứng trạng”, “bất yếu dĩ vi trúng phong, tức chân đích trung ư phong, thương hàn tức chân đích thương ư hàn – ý là gọi là trúng phong nhưng thực ra không phải là phong ở bên trong, hoặc phóng trúng vào trong, thương hàn không phải là do hàn tà làm tổn thương, phong với hàn chỉ là tên đại diện chứ không phải là phong với hàn”.  Cái thuyết “phong thương vệ, hàn thương doanh” là chưa đủ mà vẫn cần phải bàn luận thêm

Điều 4 nói: “thương hàn nhất nhật, thái dương thụ chi. Mạch nhược tĩnh giả, vi bất truyền. Pha dục thổ, nhược phiền táo, mạch Sác Cấp giả, vi truyền dã”. Đây là thuyết nói khi người bệnh mới mắc thương hàn, đa phần sẽ xuất hiện biểu hiện của Thái dương bệnh chứng cho nên nói “Thương hàn nhất nhật, Thái dương thụ chi”. Nếu mạch yên tĩnh mà không Sác Cấp, thì tức là bệnh chứng nhẹ, không đến mức truyền nhập vào lý, hoặc bán biểu bán lý. Thiếu dương bệnh thì có buồn nôn. Dương minh bệnh thì phiền táo, có nên nếu có tình trạng buồn nôn, hoặc phiền táo bất an thì tức là bệnh đã có sự truyền nhập vào Thiếu dương và Dương minh. Mà mạch Sác Cấp tức là bệnh tà mãnh liệt, bệnh thế phát huy biến hoá, cho nên xác định bệnh chứng ắt sẽ có sự truyền nhập.

Điều 7 nói: “bệnh hữu phát nhiệt ố hàn giả, phát ư dương dã, vô nhiệt ố hàn giả, phát ư âm dã”. Thuyết này tức là biểu dương bệnh, có biểu hiện “phát nhiệt mà ố hàn” thì là bệnh phát ở Thái dương bệnh; nếu là biểu âm bệnh, có biểu hiện “không phát nhiệt mà ố hàn”, tức là bệnh phát ở Thiếu âm bệnh. Cần phải chú ý rằng: “phát nhiệt ố hàn” và “không phát nhiệt ố hàn” là chứng giám biệt quan trọng chủ yếu của Thái dương bệnh và Thiếu âm bệnh. Do đó nó được nêu ra đầu tiên để nhấn mạnh sự khác biệt.

Điều 281: “thiếu âm chi vi bệnh, mạch Vi Tế, đãn dục mị dã”. Điều này là nhấn mạnh Thiếu âm bệnh “vô nhiệt ố hàn” hiển nhiên khác với Thái dương bệnh “phát nhiệt ố hàn”, bệnh chứng thuộc hư chứng nhiều, trong mạch Phù có hiện tượng của mạch Vi Tế, mà tinh thần không được phấn chấn, cho nên bệnh nhân chỉ muốn ngủ. Từ đó không khó để nhận thấy Thiếu âm bệnh là “biểu chứng của âm tính bệnh”. Quan điểm này chưa được các bậc tiền bối chỉ ra rõ ràng nên ắt phải giải thích thêm 

Căn cứ vào Bát cương để phân tích, cùng là 1 bệnh nhưng đều có 2 loại bệnh chứng âm dương khác nhau, biểu chứng đương nhiên cũng không ngoại lệ. Kinh nghiệm thực chiến cũng đã chỉ ra rằng, người lớn tuổi hoặc người có thể chất hư yếu, nếu bị bệnh ngoại cảm, thường thường sẽ có biểu hiện của Thiếu âm bệnh biểu chứng, mà trong thiên Thiếu âm bệnh ở <Thương hàn luận>, từ những luận thuật chứng trị đầu tiên đã đề xuất chứng cần phát hãn của Ma hoàng Phụ tử Tế tân thang và Ma hoàng Phụ tử Cam thảo thang. Đặc biệt là trong điều văn về Ma hoàng Phụ tử Cam thảo thang, cũng đã chỉ rõ ra là “dĩ nhị tam nhật vô lý chứng, cố vi phãn hãn dã”. Có thể thấy Thiếu âm bệnh, 2-3 ngày trước là đơn thuần thuộc biểu chứng rất rõ ràng. 

Chỉ có điều có biểu hiện của Thiếu âm bệnh thì tức là thân thể vốn hư yếu, cho nên thời gian duy trì ở biểu chứng cũng rất ngắn, sâu 2-3 ngày tức là thường sẽ truyền vào lý, khi đó sẽ bắt bầu phát ẩu thổ hạ lợi của Thái âm bệnh. Trong thiên cũng có nói về chứng trị của Tứ nghịch bối, đại đa phần là thuộc loại hình tính bệnh và hợp bệnh, chứ không còn đơn thuần là Thiếu âm bệnh. Phàm những “bệnh tử”, đại khái đều là sau khi “Vị khí suy bại”, cũng tức là Thái âm bệnh ở giai đoạn cuối. Điều văn về Thiếu âm bệnh tử chứng đa phàn có liên quan đến Nhị âm tính bệnh, Trọng Cảnh không nêu ra ở Thái âm bệnh thiên, mà đặc biệt đưa vào Thiếu âm bệnh thiên  thực cũng là rất có thâm ý. Bệnh khi mới khởi phát, tức là biểu hiện loại Thiếu âm biểu chứng, nhưng không được xem nhẹ nó. Vì chỉ trong vòng 2-3 ngày sau sẽ có nguy cơ xuất hiện của Thái âm tử chứng, nên cần phải nắm bắt cơ hội chữa trị kịp thời để cứu nguy. Thái dương và Thiếu âm đều thuộc biểu chứng, cho nên đều có sự biến hoá truyền vào lý hoặc bán biểu bán lý. Nhưng Thái dương lấy việc truyền vào Dương minh, Thiếu dương là lẽ thường, mà cũng có khi truyền vào Thái âm, Quyết âm, cho nên trong Thiếu âm bệnh thiên cũng có xuất hiện chứng trị của Đại thừa khí thang và Tứ nghịch tán. Thiếu âm bệnh thiên vốn khó đọc, nhưng nếu biết vận dụng Bát cương phân tích thì cũng dễ hiểu, do đó, tóm lược ở đây để cùng tham khảo

Tổng kết, <Thương hàn luận> sở dĩ gọi Thái dương bệnh và Thiếu âm bệnh, kì thực là nói bệnh chứng tuy cùng ở bộ vị biểu chứng nhưng có phân thành 2 loại âm dương khác nhau. Bệnh tại biểu, pháp trị đáng phải phát hãn, nhưng do Thiếu âm bệnh đa phần là hư chứng, nên phát hãn không được thái quá mà còn ắt nên phối với Phụ tử, Tế tân là thứ ôn dược mang tính kích thích. Còn Thái dương bệnh thì không như vậy, nếu dương nhiệt kháng thịnh thì đáng phải phối với tính trầm hàn của Thạch cao, đó là đại khái về sự khác biệt giữa 2 chứng trị này. Hơn nữa, bất luận Thái dương hoặc Thiếu âm đều có “tự hãn” và “vô hãn”, hiển nhiên chúng cũng thuộc vào 2 loại hình khác nhau, tuy phép trị nói chung là phát hãn, nhưng “tự hãn” thì ắt dùng Quế chi thang trị pháp, còn “vô hãn” thì dùng Ma hoàng thang trị pháp. Tuỳ sự biến hoá xuất nhập của chứng hậu mà tiến hành gia giảm dược vị. Do đó mà hình thành Quế chi thang loại phương tễ và Ma hoàng thang loại phương tễ, đó cũng là 2 hệ thống phương tễ giải biểu. 

1.2/ Lý loại chứng. Lý chứng cũng có 2 loại âm dương, <Thương hàn luận> nói Dương minh bệnh tức là lý dương chứng, nói Thái âm bệnh tức là lý âm chứng. Do điều trị lý chứng có phân biệt âm dương dị pháp, phương dược khác nhau nên cần phải phân biệt bàn luận.

(1) Lý dương chứng loại: 

Điều 180 nói: “dương minh chi vi bệnh, Vị gia thực thị dã”. Tức là bệnh tà sung thực ở “Vị trường chi lý-ở trong Vị trường”, ấn vào ngạnh mãn có đề kháng, tức là Vị gia thực. Phàm bệnh Vị gia thực đại khái là Dương minh bệnh.

Điều 182 nói: “Dương minh bệnh ngoại chứng vân hà? Đáp viết: thân nhiệt, tự hãn xuất, bất ố hàn phản ố nhiệt dã”. Là nói ngoại chứng của Dương minh bệnh bao gồm chứng hậu “thân nhiệt, tự hãn xuất, bất ố hàn phản ố nhiệt” và phúc chứng của Vị gia thực. Phàm các bệnh có ngoại chứng này thì cũng đều có thể xác định là Dương minh bệnh.

Đối với điều này còn phải lưu ý: nhiệt sung thực ở lý ắt sẽ bức bách ra cả bên ngoài, cho nên Dương minh bệnh có “thân chưng chưng nhi nhiệt-người nóng hầm hập”. Đối với nhiệt uất của Thái dương biểu chứng thì nó có phần kịch liệt hơn, nhiệt chưng bốc từ trong lý nên bức bách mồ hôi tự ra, mồ hôi nhiều mà hôi dính, khác xa với tình trạng ra ít mồ hôi, mồ hôi trong loãng, khí vị nhẹ của Thái dương trúng phong tự hãn. Do nhiệt thế kịch liệt thì cảm giác “ố hàn” bị ức chế, cho nên không sợ lạnh mà thành ra sợ nóng, khác với chứng “tất ố hàn” của Thái dương bệnh. 

Điều 185 nói: “bản Thái dương bệnh, sơ đắc bệnh thời, phát kì hãn, hãn tiên xuất bất triệt, nhân chuyển thuộc Dương minh dã. Thương hàn phát nhiệt, vô hãn, ẩu bất năng thực, nhi phản hãn xuất trấp trấp nhiên giả, thị truyền thuộc Dương minh dã”. Là nói: bản bệnh là Thái dương bệnh, khi bệnh mới phát tuy đã phát hãn, nhưng bệnh tà theo mồ hôi không thấu triệt, phần bệnh tà còn lại truyền vào lý mà thành Dương minh bệnh. Lại có biểu hiện của “thương hàn phát nhiệt, vô hãn, ẩu bất năng thực giả” là Thái dương thương hàn đã nội truyền vào Thiếu dương của Sài hồ thang chứng, mà nếu có “hãn xuất trấp trấp nhiên giả” thì là bệnh đã truyền vào Dương minh. Xét: Dương minh bệnh, là từ Thái dương bệnh trực tiếp truyền vào lý mà thành; cũng có khi từ Thái dương bệnh truyền vào Thiếu dương rồi tiếp tục truyền từ Thiếu dương vào trong mà phát thành Dương minh bệnh.

Điều 204 nói: “thương hàn ẩu đa, tuy hữu âm dương chứng, bất khả công chi”. Thương hàn nôn nhiều, tức là Sài hồ thang chứng chưa tận, tuy đã truyền vào lý, dù có Dương minh chứng cũng không thể dùng Thừa khí thang để công lý.

Điều 205 nói “dương minh bệnh, tâm hạ bĩ mãn giả, bất khả công chi. Công chi lợi toại bất chỉ giả tử; lợi chỉ giả dũ”. Tâm hạ ngạnh mãn tức là chỉ tâm bị bĩ ngạnh mà nói, là chứng hậu của Vị khí đã cực hư, phép trị nên phối tễ với Nhân sâm. Cho nên Dương minh bệnh nếu thấy tâm hạ ngạnh mãn, thì không thể công được, nếu dùng nhầm phép công khiến hạ lợi bất chỉ mà chết; nếu mà hạ lợi cầm được thì có thể cứu khỏi.

Điều 210 nói “phu thực tắc thiềm ngữ, hư tắc trịnh thanh. Trịnh thanh giả, trùng ngữ dã. Trực thị, thiềm ngữ, suyễn mãn giả tử, hạ lợi giả diệc tử”. Là nói bệnh khí thực thì thiềm ngữ, tinh khí bị đoạt thì trịnh thanh. Trịnh thanh tức là nói lặp đi lặp lại. Tinh khí kiệt ở trên thì trực thị, thiềm ngữ mà lại có trực thị thì đã thành bệnh thực chính hư, là chứng hậu nguy hiểm, nếu lại thấy suyễn mãn hoặc hạ lợi thì đó là hiện tượng hư thoát, cho nên chết.

Điều 211 nói “phát hãn đa, nhược trùng phát hãn giả, vong kì dương, thiềm ngữ mạch đoản giả tử; mạch tự hoà giả bất tử”, là nói: phát hãn nhiều mà lại phát hãn nữa thì sẽ vong dương, khiến Vị trung táo thì ắt sẽ thiềm ngữ. Mạch Đoản là chứng hậu của tân dịch hư kiệt, bệnh thực chính khí hư, cho nên chết; mạch không Đoản mà tự hoà, thì chính khí chưa suy, có thể không đến nỗi chết. Xét: thực nhiệt ở lý của Dương minh bệnh, rất dễ làm hao thương tân dịch, cũng dễ khiến tân dịch hư kiệt. Cả 2 điều trên đều là nói rõ nguyên nhân dẫn đến tử chứng của tà thực chính hư.

Điều 218 nói: “thương hàn tứ ngũ nhật, mạch Trầm nhi suyễn mãn. Trầm vi tại Lý, nhi phản phát kì hãn, tân dịch việt xuất, đại tiện vi nan. Biểu hư lý thực, cửu tắc thiềm ngữ”. Mạch Trầm chủ lý, mạch Trầm mà suyễn mãn, đáng là lý nhiệt ủng nghịch dẫn đến, thầy thuốc nhận nhầm là biểu chứng chưa giải của Ma hoàng thang chứng, lại tiếp tục phát hãn, do đó khiến lượng lớn tân dịch ngoại việt, dẫn đến đại tiện khó, biểu do ra mồ hôi mà hư, lý do táo kết mà thực, lâu ngày thì bệnh độc thượng phạm đầu não, ắt dẫn đến thiềm ngữ.

Cơ bản của luận thuật trên là nói về Dương minh bệnh, tức là nhiệt kết ở lý của “dương tính chứng”. Nếu nhiệt kết thành thực, thì sẽ phản ánh qua phúc chứng của Vị gia thực, nếu nhiệt không thực thì có thể biểu hiện ngoại chứng như “thân nhiệt, hãn tự xuất, bất ố hàn phản ố nhiệt”. Bệnh này thường do Thái dương chứng hoặc Thiếu dương chứng truyền nhập vào, nhưng cũng có khi là do tự phát mà thành bệnh. Lý nhiệt hao thương tân dịch, nhiệt thực tân kiệt thì tử. Cho nên Dương minh bệnh tối kị phát hãn. Nên dùng phép hạ mà không dùng thì cũng dẫn đến các chứng hậu nguy hiểm của tà thực chứng hư. Trên đây là nói khái quát khá rõ ràng về Dương minh bệnh, cụ thể xem thêm trong phương chứng của Bạch hổ thang chứng, Thừa khí thang chứng,v.v…

(2) Lý dương chứng loại: 

<Thương hàn luận> điều 273 nói: “thái âm chi vi bệnh, phúc mãn nhi ẩu, thực bất hạ, tự lợi ích thậm, thời phúc tự thống. Nhược hạ chi, tất hung hạ kết ngạnh”. Là nói về Vị hư ẩm tụ, cho nên bụng đầy mà nôn, ăn không vào, trong Vị không những có hàn ẩm, mà còn không thể hấp thu cho nên “tự lợi ích thậm-tự ỉa chảy càng lúc càng nặng”. Hàn khí hạ hãm ở bụng dưới thì bụng tự đau, hàn khí bất hạ hành thì đau tự hết. Thái âm bệnh nên ôn ấm không nên công hạ, nếu không cẩn thận mà hạ nhầm, ắt khiến Vị càng hư mà ẩm càng đình tụ, nặng thì ác hoá  mà xuất hiện hung hạ kết ngạnh. Đây là các chứng đặc trưng của Thái âm bệnh, phàm các bệnh có đặc trưng này, đều có thể xác định là Thái âm bệnh, điều trị theo phương pháp trị bệnh của Thái âm bệnh thì sẽ không sai.

Điều 277 nói “tự lợi bất khát giả, thuộc Thái âm, dĩ kì tạng hữu hàn cố dã, đáng ôn chi, nghi phục Tứ nghịch bối”. Là nói phàm các bệnh tự hạ lợi mà không khát đều là thuộc chứng hạ lợi của Thái âm bệnh.  Sở dĩ không khát là vì trong Vị có hàn ẩm, điều trị nên dùng Tứ nghịch thang hoặc các phương tễ có tác dụng ôn trun trục hàn.

Tóm lại, Dương minh và Thái âm, bệnh vị đều là thuộc lý, là cùng 1 bộ vị nhưng có phân thành dương chứng và âm chứng. Đương minh đa nhiệt đa thực, Thái âm đa hàn đa hư, là âm dương tương đối chứng. Hạ lợi là chứng cả Dương minh và Thái âm cùng có, nhưng nhiệt thì sẽ khát, hàn thì không có khát, cho nên lấy đó làm đặc trưng để phân biệt. Tứ nghịch bối ôn trung trục hàn, không chỉ điều trị hạ lợi của Thái âm bệnh mà còn là chuẩn tắc trị liệu của Thái âm bệnh, hợp với điều trên làm thành tổng kết của Thái âm bệnh. Về phần chi tiết hãy tham khảo thêm ở phần phương chứng.

1.3/ Bán biểu bán lý chứng loại.

Bán biểu bán lý nói chung cũng giống với biểu chứng và lý chứng mà phân thành 2 loại âm dương. <Thương hàn luận> gọi Thiếu dương bệnh tức là nói về loại dương chứng. Gọi là Quyết âm bệnh tức là nói về loại âm chứng. Thảo luận về 2 loại này được trình bày dưới đây:

Trước hết nói về phần dương của bán biểu bán lý chứng. <Thương hàn luận> điều 263 nói: “thiếu dương chi vi bệnh, khẩu khổ, yết can, mục huyễn dã”. Là nói nhiệt uất ở bán biểu bán lý, không thể xuất ra biểu cũng không thể nhập vào lý, khi đó ắt sẽ thượng bách lên đầu não, thành ra phản ứng miệng đắng, họng khô, mắt hoa, cho nên phàm bệnh có biểu hiện “khẩu khổ, yết can, mục huyễn” thì đều có thể xác định là Thiếu dương bệnh.

Điều 264 nói “thiếu dương trúng phong, lưỡng nhĩ vô sở văn, mục xích, hung trung mãn nhi phiền giả, bất khả thổ hạ, thổ hạ tắc quý nhi kinh”. Thiếu dương trúng phong, là chỉ vào Thái dương trúng phong mà truyền nhập vào Thiếu dương bệnh. Hai tai không thể nghe, mắt đỏ, cũng giống như miệng đắng, họng khô, mắt hoa, đều là do nhiệt tà thượng bách lên đầu não mà thành, nhiệt ủng ở trên cho nên hung mãn mà tâm phiền. Thiếu dương bệnh không thể thổ hạ, nếu dùng nhầm phép thổ, hạ thì chính khí hư, tà khí hãm lại ắt thành chứng kinh quý. 

Điều 255 nói “thương hàn, mạch Huyền Tế, đầu thống phát nhiệt giả, thuộc Thiếu dương. Thiếu dương bất khả phát hãn, phát hãn tắc thiềm ngữ. Thử thuộc Vị, Vị hoà tắc dũ, Vị bất hoà tắc phiền nhi quý”. Huyền Tế là mạch của Thiếu dương, Thái dương thương hàn có mạch là Phù Khẩn, nay có mạch Huyền Tế mà đau đầu phát nhiệt, thì là đã truyền vào Thiếu dương Sài hồ chứng. Thiếu dương bệnh không thể phát hãn, nếu phát hãn thì trong Vị táo, ắt thành thiềm ngữ, khi đó nên dùng Điều vị thừa khí thang để hoà Vị, nếu không khiến Vị hoà thì không những có thiềm ngữ không ngừng mà còn càng phiền quý hơn.

Nói tiếp đến tính âm của bán biểu bán lý chứng. Điều 326 nói: “quyết âm chi vi bệnh, tiêu khát, khí thượng tràng tâm, tâm trung đông nhiệt, ẩm nhi bất dục thực, thực tắc thổ hồi, hạ chi lợi bất chỉ”. Tiêu khát là nhiệt chứng, “âm bất ứng hữu nhiệt-âm chứng thì đáng không có nhiệt chứng”, chỉ có thể là có sự lẫn lộn, thác tạp, đại ý như sau. Quyết âm bệnh thượng hư hạ hàn, hàn thừa hư mà thượng bách, do đó có tự giác chứng trạng như “khí thượng tràng tâm” , “tâm trung đông nhiệt”, hồi trúng bức bách ở cách mô cho nên đói mà không muốn ăn, ăn thì nôn ra hồi trùng. Hàn ở bán biểu bán lý, vốn không có chứng hạ lợi, so với chứng hàn tại lý của Thái âm bệnh gây ra “tự lợi ích thậm” rất khát nhau, nhưng nếu có hạ lợi, thì sẽ tịnh tiến đến Thái âm bệnh mà hạ lợi bất chỉ.

Điều 329 nói: “Quyết âm bênhk, khát dục ẩm thuỷ giả, thiểu thiểu dữ chi dũ”. Âm chứng thì nói chung không có khát, nhưng nếu là hư thì dẫn thuỷ tự cứu, cho nên Quyết âm bệnh cũng có chứng khát, nếu khát muốn uống nước thì uống ít một mà tự khỏi.

Xét: chứng khát mà uống nước từ từ là hết đương nhiên không phải là chứng Tiêu khát. Có thể thấy đây rõ ràng trong đề cương ắt sẽ không có tình trạng tiêu khát rõ rệt. Các y gia đời trước với đề cương Quyết âm bệnh đã đánh giá trên nhiều phương diện, đưa ra nhiều luận thuật nhưng cho đến nay vẫn còn không ít nghi ngờ. Bây giờ kết hợp lại với các chứng trị cụ thể trong thiên rồi thảo luận lại, mô tả ngắn gọn như sau:

Dựa theo quan sát <Thương hàn luận> Quyết âm bệnh thiên chỉ có 4 điều (ngoài 2 cái trên thì còn 2 điều nữa nhưng do thấy không trọng yếu nên lược), đều có 3 chữ “Quyết âm bệnh” nhưng lại không đưa ra chứng trị. Các điều bên dưới tuy có đưa ra chứng trị nhưng không có điều nào có 3 chữ “Quyết âm bệnh”. <Kim quỹ ngọc hàm kinh> có 1 thiên nói “quyết âm lợi ẩu uyết bệnh”, xét về nội dung thì biểu lý âm dương đều có, chính xác thì có đưa ra chứng và phép trị của 4 bệnh, nhưng lại không tập trung vào luận quyết âm một cách rõ ràng. Có thể biết rằng Thúc Hoà sau khi lấy Lục kinh bệnh, xuất hiện tạp bệnh này không thuộc vào loại nào, mà trong Quyết âm bệnh thiên chỉ có 4 điều lại không có luận trị nên xếp nó chung vào thành 1 thiên Quyết âm bệnh làm điều văn tiếp theo. Tuy nhiên Thúc Hoà không có sự nghi ngờ, cho nên vẫn lấy nguyên văn trong <Kim quỹ ngọc hàm kinh> mà mệnh đề tham khảo cho đến tận ngày nay. Điều đáng tiếc là <Kim quỹ ngọc hàm kinh> vào thời nhà Nguyên ít được lưu truyền, cho nên một số người đời sau cho rằng đoạn sau của Quyết âm thiên là luận thuật về Quyết âm bệnh, điều này không phải là ý ban đầu của Thúc Hoà. Kì thực thiên này của Trọng Cảnh rất có thâm ý, nói ngắn gọn trong 3 điểm sau: Thứ nhất: Vị là bể của thuỷ cốc, là nguồn hoá sinh của khí huyết, Vị khí hoà thì có thể điều trị, Vị khí suy thì chết, phàm điều trị bệnh, ắt phải chú trọng vào Vị khí, vì Vị khí có liên quan đến cả 4 loại bệnh phổ biến này, biện sinh tử hoãn cấp, và hàn nhiệt hư thực để trị, làm thành tổng kết của các thiên tam dương, tam âm. Thứ 2: đồng thời cảnh báo các y gia rằng biểu lý âm dương có thể khái quát được vạn bệnh nhưng thương hàn tạp bệnh thì đại pháp không có đặc thù, cho nên nó được gọi là <Thương hàn tạp bệnh luận>. Ví như Bạch hổ thang, Thừa khí thang, Qua đế tán, Tứ nghịch thang, Đại Tiểu sài hồ thang, Quế chi thang đều là phương trị thương hàn, nhưng khi thích hợp cũng điều trị cả tạp bệnh. Thứ 3: ngoài điều văn về Ô mai hoàn, Đương quy Tứ nghịch thang, tuy có luận trị “quyết” nhưng chứng thuộc Quyết âm, lại không phải không ám chỉ trong phạm vi chứng trị bị lược bớt của Quyết âm bệnh.

Phần thảo luận về <Thương hàn luận> được giới thiệu ngắn gọn ở đây. Dưới đây là phần thuyết minh sơ lược về vấn đề biện chứng

Vì bán biểu bán lý là nơi tập trung của các cơ quan tạng khí, sự uất tập trong cơ thể thường ảnh hưởng đến một tạng khí hoặc một số tạng khí mà có các phản ứng bất thường, do đó các chứng thường phức tạp và biến hoá bất thường, không giống như biểu chứng hay lý chứng đơn thuần, do đó chỉ có thể đưa ra khái quát đặc trưng để dễ dàng nắm bắt. Như ở trên có luận thuật về chứng “khẩu khổ, yết can, mục huyết” của Thiếu dương bệnh, cũng chỉ là phản ứng tất nhiên của nhiệt chứng, chứ thật ra không đủ để khái quát cho bán biểu bán lý. Đối với Quyết âm bệnh đó còn là vấn đề khó khăn hơn, tức là chỉ có thể biện vào bán biểu bán lý dương chứng và âm chứng, chứ không thể dựa vào các gọi là đề cương của Thiếu dương và Quyết âm trong <Thương hàn luận> để làm căn cứ. Tuy nhiên pháp biện cũng rất đơn giản. Do là biểu lý dễ biết, âm dương dễ phán đoán, phàm khi đã loại trừ được dương tính của biểu lý thì đương nhiên sẽ còn lại dương tính của bán biểu bán lý. Loại trừ được âm tính của biểu lý thì đương nhiễn sẽ còn lại âm tính của bán biểu bán lý. <Thương hàn luận> ở tam dương bệnh thiên, trước tiên có Thái dương, tiếp đến Dương minh rồi cuối cùng là Thiếu dương. Ở tam âm bệnh thiên, trước tiên là Thái âm, rồi đến Thiếu âm và cuối cùng là Quyết âm, đều là sắp xếp dựa theo ngụ ý này. Có người cho rằng thứ tự sắp xếp này giống với <Nội kinh>. Cho rằng <Nội kinh> là thuyết về “nhật chủ khí-ban ngày chủ khí”, nói bệnh có sự truyền nhập theo thứ tự, tạo thành chu kì mà lặp đi lặp lại. 

Điều này không chỉ có trong sách của Trọng Cảnh mà thực tế cũng đã chứng minh rằng, tuyệt nhiên không có Dương minh bệnh lại truyền ra Thiếu dương bệnh. Nhưng đặc biệt trong Lục kinh truyền thiên lại có sự truyền bệnh ngược về Thái dương, đó thực sự điều quái lạ. “Tam dương tiên biểu nhi hậu lý, tam âm tiên lý như hậu biểu”. Quan trọng là “ngoại là dương, lý là âm”, cho nên khi biện “dương tính” thì đáng bắt đầu từ biểu, biện “âm tính” thì đáng bắt đầu từ lý, nếu không thì vô nghĩa. Tất cả những điều trên đều thuộc vấn đề mang tính nguyên tắc của Bán biểu bán lý. Đối với các chứng trị cụ thể, có thể tham khảo thêm ở các loại phương Tiểu sài hồ thang, Ô mai hoàn,v.v…

Tác giả: Hồ Hi Thứ.

0/Post a Comment/Comments