Thượng tiêu thiên ước ngôn lục
Đại ý và đặc trưng của Ôn bệnh:
Nói đơn giản thì đó tức là Nhiệt bệnh. Phàm các bệnh cảm mạo tính lưu hành, “thiên ư nhiệt chứng-có biểu hiện của nhiệt chưng” thì đều thuộc loại này. <Thương hàn luận> nói: “Thái dương bệnh phát nhiệt nhi khát, bất ố hàn giả, vi Ôn bệnh”, đó là khi bệnh mới phát, tức là biểu lý cùng nhiệt, cho nên xuất hiện chứng hậu này, và khó có sự khác biệt với biểu chứng.
Trong sách nói Ôn bệnh bắt nguồn từ thượng tiêu, ở Thủ thái âm Phế, cũng lấy tính thượng viêm của hoả, nhiệt thịnh ắt sẽ bắt đầu làm thương tổn Phế, cho nên mới đưa ra luận thuyết này. Đến như nói “mạch bất Hoãn bất Khẩn nhi Động Sác, hoặc lưỡng thốn độc Đại, xích phù nhiệt, đầu thống, vi ố phong hàn, thân nhiệt, tự hãn, miệng khát, hoặc không khát mà ho, sau giờ ngọ sốt càng nặng, gọi là Ôn bệnh”, tuy là có bao gồm cả với “hoặc nhiên chứng”, nhưng kì thực so với mô tả của Thương hàn thì không có sự khác biệt.
Tóm tắt điều trị:
Về tên gọi có sự khác nhau như là phong ôn, ôn nhiệt, ôn dịch, ôn độc, thử ôn, thấp ôn, thu táo, đông ôn, ôn ngược, mà điều trị có phần khác ở vệ, ở doanh, thiên biểu, thiên lý, nên tóm lược lại như sau.
Phong ôn, ôn nhiệt, ôn dịch, ôn độc, đông ôn có tên gọi khác nhau nhưng đều thuộc trường hợp Ôn nhiệt, mà điều trị không có khác biệt là bệnh đều bắt đầu tại vệ, nếu:
+ Bệnh thiên ở biểu, người nóng mà khát, nên dùng Ngân kiều tán, nhiệt khát nhẹ mà ho dùng Tang cúc ẩm
+ Bệnh thiên ở lý, khát nhiều, ra nhiều mồ hôi, mạch Phù Hồng, lưỡi vàng, nên dùng Bạch hổ thang
+ Nếu kiêm hư, mạch Hồng Đại hoặc Sác Đại, nên dùng Bạch hổ gia Nhân sâm thang
+ Nếu có đàm tính cơ truyền mà phiền táo bất an, nên dùng Chi tử thị thang
+ Nếu đàm diên ủng thịnh, nghịch mãn mà buồn nôn, nên dùng Qua đế tán, “tà can doanh phận-tà làm khô kiệt phần doanh”, lưỡi đỏ giáng mà khô, trái lại không khát, đáng dùng Thanh doanh thang làm chủ trị.
+ Nếu có phát ban, thì dùng Hoá ban thang
+ Nếu phát chẩn, dùng Ngân kiều tán khứ Đậu thị, gia Sinh địa, Đan bì, Đại thanh diệp, Nguyên sâm làm chủ.
+ Thần mê thiềm ngữ, nên Thanh doanh thang, Ngưu hoàng hoàn, Tử lôi đan, Cục phương chí bảo đan.
+ Cả khí huyết đều bị thiêu đốt, phù hợp với Ngọc nữ tiễn khứ Ngưu tất gia Nguyên sâm điều trị cả 2 phần khí huyết là tốt.
+ “Huyết tòng thượng dật-huyết dịch sung dật lên nửa trên cơ thể”, có thể dùng Tê giác địa hoàng thang hợp Ngân kiều tán
+ Thử kiêm nhiệt thấp, thiên về nhiệt là Thử ôn, thiên về thấp là Thấp ôn, tức là cái <Kim quỹ yếu lược> nói trung kiệt, trung thấp chi chứng: nếu nhiệt là thấp biến, thấp do nhiệt kết, cũng tức là <Kim quỹ yếu lược> nói về chứng phong thấp tương bác: mạch Hồng Đại, miệng khát thậm, hãn đại xuất giả, nãi thuần nhiệt vô thấp, nhưng quy tiền chi ôn nhiệt lệ, ư phát nghi thanh, dĩ Bạch hổ thang chủ trị.
+ Nếu nhiệt là thấp trở, mà không ra được mồ hôi, nên dùng Tân gia Hoắc hương ẩm.
+ Sau khi phát hãn mà tà không hết, có thể dùng Thanh lạc ẩm để
+ Nếu nhiệt kết ở lý, không có biểu chứng, nên dùng Bạch hổ gia Truật thang
+ Nếu ra nhiều mồ hôi, mạch Tán Đại, suyễn khát dục thoát, nên dùng Sinh mạch tán để thu liễm mạch
+ Thử ôn thượng nghịch ở Phế ắt gây ho, ho mà không có đờm, thiên về hoả mà không thiên về thấp, thanh âm vẫn rõ ràng, có thể dùng Thanh lạc ẩm gia Cam, Cát, Hạnh nhân, Mạch đông, thanh nhiệt nhuận táo để trị.
+ Nếu ho mà đờm nhiều, hoặc không khát, hoặc khát không uống nhiều nước, đó là chứng hậu của kiêm thấp đa ẩm, nên dùng Tiểu bán hạ gia Phục linh lại gia Hậu phác Hạnh nhân thang điều trị.
Trên đây là thuật về tà ở vệ. Nếu tà đã “can doanh phận-làm khô kiệt phần doanh” mà có biểu hiện:
+ Phiền khát lưỡi đỏ, đêm ngủ bất an, thường thiềm ngữ, mắt hoặc mở không thể nhắm hoặc nhắm không thể mở, đều nên dùng Thanh doanh thang làm chủ.
+ Nếu chỉ có nhiệt không có hàn, thiềm ngữ, thần mê, thì nên cấp thông khiếu thanh nhiệt như An cung, Tử tuyết.
+ Nếu hàn nhiệt, lưỡi trắng không khát, thổ huyết, là nhiệt thấp đều nặng, khí huyết đều bị khốn cùng, gọi là Thử sái, là bệnh khó trị, có thể dùng Thanh lạc ẩm gia Hạnh nhân Ý dĩ Hoạt thạch thang.
+ Trẻ con trúng thử, đột nhiên kinh quyết, gọi là Thử giản, nên dùng Thanh doanh thang hoặc dùng ít với Tử tuyết đan
+ Người lớn bị Thử giản, cũng điều trị như trên
+ Tay chân xiết túng, có thể dùng Thanh doanh thang với Câu đằng, Đan bì, Linh dương giáp điều trị.
+ Mùa hè nắng nóng kéo dài mà thành Phục thử: lưỡi trắng miệng khát vô hãn, đó là chứng tà ở khí phận biểu chứng, nên dùng Ngân kiều tán khứ Khiên ngưu tử, gia Hạnh nhân, Hoạt thạch chủ trị.
+ Nếu lưỡi đỏ, miệng khát, vô hãn, là tà đã “cn huyết phận-làm khô kiệt huyết phận”, nên dùng Ngân kiều tán gia Sinh địa, Đan bì, Xích thược, Mạch đông làm chủ.
+ Lưỡi trắng, miệng khát, ra mồ hôi trắng, đó là chứng tà ở khí phận biểu hư, nên dùng Ngân kiều tán khứ Khiên ngưu tử, Kinh giới tuệ, gia Hạnh nhân, Thạch cao, Hoàng cầm làm chủ
+ Nếu mạch Hồng Đại, khát nhiệt, mồ hôi nhiều nên dùng Bạch hổ.
+ Nếu lưỡi đỏ, miệng khát, ra nhiều mồ hôi, tà đã làm khô huyết phận, nên gia giảm Sinh mạch tán,
+ Nếu là thấp ôn: đầu thống hàn nhiệt, người nặng nề đau nhức, lưỡi trắng không khát, mặt vàng, hung muộn, bệnh kéo dài không khỏi, là chứng hậu của thấp trệ, có thể dùng Tam nhân thang, nhưng nếu là thực chứng có thể dùng Nhất vật Qua đế thang
+ Nếu là thấp ôn dùng nhầm phát hãn mà dẫn đến thần mê chi thể nghịch lãnh, nên dùng Thanh doanh thang khứ Liên tâm, Mạch dông, gia Ngân hoa, Xích tiểu đậu bì,
+ Nếu thấp nhiệt phạm Phế, yết hầu trở tắc, họng đau, nên dùng Ngân kiều Mã bột tán.
+ Khí uất mà “uyết-tiếng nôn oẹ”, nên dùng Tuyên tý thang
+ Trọc thoá đàm nhiều, suyễn thở bất định nên dùng Vi hành thang gia Hoạt thạch, Hạnh nhân.
Ôn ngược là Ngực tật thiên ở nhiệt chứng: cốt tiết đông phiền, thường có nôn, mạch như bình thường, chỉ nhiệt không hàn, nên dùng Bạch hổ gia Quết chi thang làm chủ.
+ Nếu chỉ nhiệt không hàn, hoặc nhiệt đa hàn thiểu, lưỡi khô miệng khát, là Chướng ngược, có thể dùng Ngũ chấp ẩm để cứu âm.
+ Nếu lưỡi trắng, khát nước, ho nhiều, “y tòng bối khởi?”, là do Phục thử gây ra, gọi là Phế ngược, là bệnh ở phần nông, nên dùng Hạnh nhân thang
+ Nếu bệnh thâm hãm vào huyết phận, nhiệt đa, mê cuồng, thiềm ngữ, phiền khát, lưỡi đỏ giữa vàng, mạch Nhược mà Sác, gọi là Tâm ngược, nên gia giảm Ngân kiều tán
+ Nếu có thêm lưỡi bẩn, miệng hôi, thì nên dùng An cung Ngưu hoàng hoàn.
Thu táo xuất hiện các chứng, đều thuộc phong nhiệt thương phế, trong sách gọi là Phục khí hoá hoả gây ra bệnh, cũng là biết thuộc cùng loại với Ôn nhiệt: mạch Sác Đại, phát nhiệt mà khát, Tang hạnh thang, Tang cúc ẩm đều có thể dùng.
+ Nếu tân dịch táo, yết hầu bất lợi, nên dùng Sa sâm Mạch đông thang.
+ Nếu biểu thực vô hãn, mà dẫn đến mắt đỏ, họng đau có thể dùng Ngân Hà thang
+ Nếu suyễn ẩu khái nghịch, miệng táo mà khát, có thể dùng Thanh táo cứu Phế thang.
Tóm lại, nhiệt chưa thịnh thì chưa tổn thương tân dịch, lấy khô táo để luận bệnh, cũng là cùng nghĩa với tân dịch kiệt hoả thượng viêm. Dưới đây còn luận thuật về Thu táo làm bệnh ở tinh khí, nhưng cũng không nằm ngoài Phong hàn cảm mạo, có thể điều trị dựa theo Thương hàn, cho nên thuật lặp lại.
Trung tiêu thiên ức ngôn lục: nói về bệnh của Vị trường
Phong ôn, ôn nhiệt, ôn dịch, ôn độc, đông ôn là chỉ vào Dương minh thực chứng có nhiệt kết ở lý: đại mãn thực thống, có thể dùng Tam thừa khí thang chủ trị;
+ Nếu không có chứng hậu của kết thực, thì nên dùng tễ của Bạch hổ
+ Nếu có nhiệt chứng, tân dịch khô kiệt, khi trị nhiệt phải chú ý cứu tân dịch đã hư, dùng Tăng dịch thang làm định pháp.
+ Nếu như tân dịch chưa hư, nên dùng Thừa khí hợp dùng, đương nhiên là không có hàn chứng.
+ Nếu có hàn thấp, đa phần thuộc chứng của Thái âm hư chứng, ắt nên bồi bổ, dùng nhóm tễ Tứ nghịch Lý trung điều trị
Các trường hợp khác như Thử ôn, Phục thủ, Thấp ôn, đều là chứng có kiêm ôn kiêm thấp, hàn nhiệt hỗ giao do nhiệt bị thu liễm lưu lại vào trong thấp, cũng tức là thuọc Dương minh Thái âm tính bệnh, ắt phải phân chủ thứ điều trị, hoặc chủ hành thấp để giải nhiệt như Ngũ linh, Trư linh thang.Hoặc chủ hoạt nhiệt để lợi thấp như phép trị của Chi tử, Tả tâm. Nếu như nhiệt và thấp đều thịnh, hoặc là Đới hạ, hoặc là Hoàng đản, hoặc là Hoắc loạn, trong sách của Trọng Cảnh đều có chia thành các chương chuyên để luận trị, học giả hãy tham khảo. Quan trọng là không để bị hiểu lầm là sách của Trọng Cảnh chỉ luận trị Thương hàn chứ không giảng về Ôn bệnh như hậu thế vẫn nói.

Đăng nhận xét