-->

Ba phương trị nghiệm về đơn thuốc trong Kim quỹ yếu lược

1/ Đại hoàng Phụ tử thang điều trị đau “tả trắc yêu phúc-eo lưng bụng bên trái”

Nam 30 tuổi, khám ngày 20/5/1986. Bị đau eo lưng bụng bên trái hơn 1 năm, gặp lạnh đau tăng, cách đây 1 tháng tình trạng đau có giảm sau khi xoa bóp bấm huyệt, nhưng nửa tháng gần đây lại đau lại, kèm theo thiếu phúc bên trái và mặt trong đùi trái đau cấp, gặp hàn thì đau càng nặng, tiểu đứng không được mà phải ngồi xuống mới tiểu được, không có niệu tần niệu cấp và niệu thống, tiểu tiện sắc hơi vàng, đại tiện hơi cứng ngày 1 lần, ăn uống bình thường, mạch Trầm Huyền, chất lưỡi tối nhợt, rêu trắng dầy. Tuần trước có nhập viện kiểm tra thì xét nghiệm nước tiểu, kiểm tra chức năng thận và bàng quang đều bình thường. Chứng thuộc hàn tà khách ở 2 kinh túc thiếu âm và túc quyết âm, dẫn đến kinh mạch không thông sướng, bàng quang khai cố thất độ, pháp trị đáng phải ôn khai tán hàn, hành ứ. Phương dùng: Phụ tử 30g, Tế tân 10g, Đại hoàng 10g, dùng 2 tễ, ngày 1 tễ, sắc nước (dùng hoả văn sắc lâu) uống ấm.

Ngày 23/5/1986 khám lại: sau khi uống thuốc, đại tiện lỏng nát ngày 2-3 lần, khoảng 12 giờ đêm, đột nhiên đau dữ dội âm nang bên trái, liên tục kéo dài khoảng nửa tiếng, bên ngoài âm nang bị đau ra mồ hôi như dội nước, theo đó mà đau vùng eo lưng, thiếu phúc và mặt trong đùi trái đều giảm, tiểu tiện khi đứng cũng đã có thể đi được. Dùng tiếp thêm 2 tễ, sau đó các chứng đều khoẻ, theo dõi đến nay chưa bị tái phát.

2/ Phụ tử Ngạnh mễ thang trị sôi ruột, tiết tả

Ông Vương, khám ngày 19/8/1986 vì bị sôi ruột, tiêu chảy nửa năm nay, từng nhập viện làm xét nghiệm cấy phân nhưng không phát hiện bất thường, hiện tại liên tục sôi ruột, tiết tả ngày 3-5 lần, tứ chi không ấm, vùng bụng không đau, ăn uống bình thường, tiểu tiện trong dài, mạch Huyền, lưỡi nhợt, rêu trắng hoạt. Chứng thuộc Tỳ Thận dương hư, thuỷ thấp nội đình, khí trệ bất sướng. Phép trị nên ôn dương khứ thấp, lý khí. Phương dùng: Chế phụ 30g, Bán hạ 30g, Chích thảo 30g, Can khương 30g, Cát cánh 20g, Đại táo 5 quả, Ngạnh mễ 30g, dùng 2 tễ, ngày 1 tễ, sắc nước uống (dùng hoả văn sắc lâu)

Khám lại ngày 22/8/1986: sau khi uống thuốc đại tiện đã thành khuôn, ngày 1 lần, tình trạng sôi bụng cũng giảm, lưỡi chuyển sang hồng đỏ, rêu trắng hoạt, mạch Huyền nhưng hoãn hơn trước, Dùng tiếp 2 tễ, sau đó các chứng đều khỏi.

3/ Cam thảo tả tâm thang trị môi miệng “bào chẩn-mụn bọc nước”

Bà Trương 40 tuổi, khám ngày 5/7/1984 vì môi miệng có bào chẩn, có tình trạng lở loét miệng, đau đớn hơn 1 năm, uống Tam hoàng phiến hoặc Ngưu hoàng giải độc phiến thì tiêu chảy nhiều lần mà bào chẩn chỉ hơi đỡ, sau đó thời gian lại tái phát. Chứng hiện tại trong khoang miệng có 4-5 cái bào chẩn, chưa vỡ loét, hơi đau, ăn uống bình thường, nhị tiện điều hoà, mạch Hoạt hơi Sác (82ck/phút), chất lưỡi nhợt rêu trắng mỏng.

Miệng môi lấy Tỳ làm chủ, mạch Hoạt hơi Sác là kinh Tỳ có thấp nhiệt, nhưng chất lưỡi nhợt, rêu trắng mỏng thì là hiện tượng của Tỳ dương hư, lại đi dùng thứ thuốc khổ hàn tả hạ mà khiến Tỳ dương không thể khôi phục, thì thấp nhiệt càng khó trừ. Phép trị là ôn phục Tỳ dương, thanh nhiệt táo thấp. Phương dùng: Sinh cam thảo 20g, Can khương 10g, Đẳng sâm 12g, Bán hạ 12g, Hoàng liên 10g, Hoàng cầm 10g, dùng 5 tễ, ngày 1 tễ, sắc nước uống. Sau khi dùng thuốc các bào chẩn đều biến mất, dặn dò không ăn đồ cay, sống, lạnh. Theo dõi  1 năm chưa tái phát.

Tác giả: Lý Phát Chi

0/Post a Comment/Comments