Trong quá trình điều trị bằng thuốc cũng như châm cứu, đều có thể xuất hiện không ít phản ứng trên bệnh nhân. Đặc biệt là những phương dược có tác dụng bổ sung dương khí, vì khi dương khí sung túc thì sẽ không dừng lưu truyền hướng đến tạng phủ và kinh lạc toàn thân.
Nhưng kinh lạc mỗi người lại có mức độ thông sướng khác nhau, bên trong kinh lạc chính tà tương tranh biến hoá, nguyên khí không ngừng xung kích bệnh khí, muốn khu trục bệnh độc ra ngoài cơ thể, khi đó sẽ xuất hiện phản ứng bài xuất tà khí. Cũng như uống phương thuốc bài trừ trở trệ, sơ thông khí huyết cũng xuất hiện rõ phản ứng bài xuất tà khí.
Dưới đây là một số tình huống bệnh nhân nhất định phải lưu ý, nếu đúng là phản ứng “bài xuất tà khí-bài tà” thì cần phối hợp chặt chẽ với bác sĩ điều trị mà cơ thể nhanh chóng được cải thiện hoặc phục hồi. Sau khi bệnh tà được bài xuất hoàn toàn, thì các tự giác chứng trạng tương ứng sẽ nhanh chóng giảm nhẹ hoặc biến mất. Nếu như không phải phản ứng bài tà thì bác sĩ không được cố chấp mà phải nhanh chóng xem xét đó có phải là phản ứng phụ có hại với bệnh nhân hay không mà đổi đơn hoặc dừng thuốc.
Bài tà theo kinh lạc có sự khác nhau: da tà khí tiến nhập vào bộ vị cơ thể khác nhau, tính chất khác nhau, dẫn đến bệnh tật khác nhau, ngoài ra thể chất mỗi người lại khác nhau, do đó phản ứng bài tà cũng rất khác nhau. Tham khảo quan điểm của Vương Chính Long tiên sinh, kết hợp với quan sát trên lâm sàng của tôi, thì nói chung bệnh khí đa phần được bài xuất như dưới đây
1/ Tứ chi
Hai tay và hai chân là các điểm tận cùng của cơ thể, cũng là nơi dễ bài xuất tà khí. Nói chung tà khí theo đường nào vào thì cũng theo đường đó ra. Tà khí đa phần là theo tứ chi, theo cơ biểu mà xâm nhập vào bên trong tạng phủ. Mà khi bài xuất tà khí, thì có cũng theo con đường này mà bài xuất. Trên lâm sàng tôi quan sát thấy, các bệnh khí xâm nhập cơ thể thường là lãnh phong, lãnh hãn (hàn), niêm hãn (thấp) có thể bài xuất ra ngoài theo các huyệt vị ở tay chân như Bát tà, Thập tuyên, Bát phong, Khí suyễn và Lao cung, Dũng tuyền,v.v… Khi xảy ra phản ứng bài tà, từ trong kinh lạc có thể sản sinh ra “di thống phản ứng-phản ứng dịch chuyển cơn đau”. Khi “di thống” bệnh khí đi quan đâu thì nơi đó thường có cảm giác đau, nhức, trướng, tê,…
2/ Bì phu
Sau khi dương khí được kích hoạt, tự cơ thể sẽ điều tiết, hàn khí theo bì phu mà bài xuất ra ngoài cơ thể. Khi hàn bài xuất ra ngoài bì phu thì toàn thân sẽ ra “lãnh hãn-mồ hôi lạnh”, khi thấp bài xuất ra ngoài bì phu thì “đại hãn lâm ly-mồ hôi ròng ròng”, thậm chí là ra “niêm hãn-mồ hôi dính”. Có người mồ hôi dính như hồ dán, hoặc sắc vàng, hôi, cực dính. Khi ra mồ hôi nên lau ngay bằng khăn khô, tránh gió, tránh dội nước lạnh vào người. Cũng có người xuất hiện “chẩn tử-mụn sẩn nhỏ”, đó cũng là độc tố trong gan và trong cơ thể bài xuất ra ngoài. Nói chung phụ thuộc tính quá mẫn từng cá thể mà có nhiều phản ứng khác nhau. Tôi căn cứ vào bộ vị bài xuất của “chẩn tử” có thể suy tính kinh lạc nào “bài tà”, ví dụ như vùng bên ngoài huyệt Dũng tuyền có “chẩn tử” thì đó là độc tố bài xuất của Thiếu âm kinh, nếu ở mu bàn chân thì đó là độc tố bài xuất của Dương minh kinh, các bộ vị khác cũng tương tự.
Một số bệnh nhân kể rằng khi thức dậy buổi sáng họ thấy trong phòng có mùi hôi hơn bình thường, đó là do cơ thể dương khí sung túc thông qua giấc ngủ mà phản ứng bài tà, biểu hiện là “xú khí-mùi hôi”. Đương nhiên, chỉ cần mở cửa sổ ra là được. Có bệnh nhân sau khi dùng thuốc xuất hiện “tiểu bạch lập-mụn trắng nhỏ-tham khảo ở link: https://www.sohu.com/a/271219905_99997293 ), nó cũng tương tự với “chẩn tử”, nhưng không ngứa. Đây là tình trạng xuất hiện ở bệnh nhân có vệ khí hư, không đủ để tuyên thông thuỷ dịch bài xuất ra bên ngoài. Sau khi dương khí trung tiêu bổ sung, doanh vệ sung túc mà xuất hiện phản ứng bài tà ra ngoài bì phu.
Lại có những người có phản ứng tróc da ở tay chân. Nói chung nếu như bệnh tà ở phần trên cơ thể đa phần sẽ khứ tà thông qua 2 tay, ở nửa dưới có thể thì thông qua 2 chân. Khi tróc da trông sẽ như rắn lột da, lớp da mới sáng sủa nhuận đẹp, Lý Khả lão trung y cũng đã quan sát thấy rằng ở một số bệnh nhân nặng sau khi thay da bệnh cũng cải thiện rõ rệt, thậm chí là khỏi hẳn, rất thần kì.
3/ Niệu dịch
Bệnh nhân có ẩm chứng, người có thuỷ thũng. Sau khi Nhâm mạch thông sướng, thuỷ ẩm theo đường nhị tiện mà bài xuất. Sau khi thuỷ ẩm bài xuất, tình trạng thuỷ thũng cũng biến mất. “Thử hoả” cũng theo đường niệu mà bài xuất, “thử hoả” là sắc nước tiểu rất vàng, khi tiểu có cảm giác đau buốt, sau khi đi tiểu cảm giác đau buốt cũng biến mất, khi đó nên uống nhiều nước ấm để trợ lực bài tà.
4/ Đường tiêu hoá
Không ít bệnh nhân sau khi dùng thuốc có xuất hiện tiện bí, hoặc có phúc tả, đều là tình trạng bài tiện không thông sướng. Hoặc có xuất hiện tiện bí xen kẽ phúc tả. Nhưng lại không có khó chịu gì khác, do đó nên tiếp tục uống thuốc 5-6 ngày thì đại tiện tự thông sướng như thường, chứng tiện bí và phúc tả đều biến mất. Đó đều là phản ứng của đường tiêu hoá, đóng vai trò cốt yếu trong quá trình điều trị.
Do đường tiêu hoá là con đường đào thải hầu hết của các mầm bệnh ra khỏi cơ thể, mà hầu hết là từ đại tràng, nên phản ứng của nó là vô cùng phức tạp. Khi phúc tả một ngày đi hơn 3 lần, thậm chí đến 10 lần, như bệnh nhân của tôi từng đi đến 15 lần/ngày, đại tiện sắc đen, hoặc cực hôi, hoặc loãng nước, nhưng đều không có cảm giác mệt mỏi, sau khi đại tiện cảm giác người nhẹ nhàng thoải mái đến kì lạ, đây là điểm rất quan trọng. Tình trạng này gặp không ít ở bệnh nhân có “thái âm hoặc thiếu âm thể chất của dương hư” sau khi dùng Tứ nghịch thang, xuất hiện phúc tả, đó là phản bệnh của bệnh tà bài xuất từ thái âm.
Lại có bệnh nhân sau khi dùng thuốc xuất hiện trong bụng có “khí thể soán động-khí di chuyển trong bụng”, hoặc cảm giác trướng mãn, hoặc đau, hoặc trung tiện nhiều, hoặc nấc. Đó là sau khi dương khí sung túc, công năng tạng phủ khôi phục, dẫn đến khí cơ ở trung tiêu thông sướng, khi đó cơ thể bắt đầu bài xuất chỗ khí trệ, là chuyện tốt. Nói chung đó là phản ứng hay gặp ở người có bệnh lý về Can, Vị, sau khi khí được bài xuất thì bệnh cũng gần khỏi.
Nếu như bệnh tà ở thượng tiêu, thường lấy ẩu thổ là phương thức bài tà. Ví như chứng Phế nham, sau khi dùng thuốc xuất hiện ẩu thổ liên tục, nôn ra đờm dịch niêm trọc, đó là sau khi chính khí khôi phục, tà khí ứ trệ ở thượng tiêu thông qua ẩu thổ mà bài xuất ra ngoài. Trung y có 3 pháp trị là hãn, thổ, hạ, mà thổ pháp chính là một cái trong số đó, cũng là 1 phép trị rất quan trọng.
5/ Đường hô hấp
Hàn khí làm khách ở Đốc mạch và Thái dương kinh có thể thông qua hắt hơi mà bài xuất ra ngoài. Nếu như Ấn đường cảm thụ phong hàn tà khí, có thể thông qua nước mũi mà bài xuất bệnh tà ra ngoài.
Trên lâm sàng thường thấy những bệnh nhân ho khan hoặc ho đờm nhiều, ngày đêm không dứt; hoặc đột nhiên sợ lạnh, sợ gió, chảy nhiều nước mũi, mũi tắc, hắt hơi, giống như cảm lạnh. Nhưng đây có khi còn là phản ứng chính khí của Thái dương kinh đang công tà. Tà khí do từng thông qua Thái dương kinh mà thâm thập vào trong cơ thể, thì tà cũng cũng thông qua Thái dương kinh mà bài xuất ra ngoài, do đó đột nhiên xuất hiện phản ứng cảm mạo. Khi đó có thể đổi dùng đại tễ Tứ nghịch thang hợp Ma hoàng thang, để tăng cường hiệu quả.
Nếu như kèm theo có “cao thiêu-người nóng-không biết có nên gọi là sốt cao hay không ?”, nói chung từ 1-3 ngày không hạ, mà loại “phát thiêu” này đa phần chỉ có nửa người trên “phát nhiệt”, cũng có thể dùng Ma hoàng Phụ tử Tế tân thang, đều 30g, sau 1-2 tiếng thì hết nóng mà tà thoát ra ngoài. Đây là phản ứng cơ thể cố gắng bài xuất phong hàn tà khí. Nói chung các loại bệnh do phong hàn gây ra, chỉ khi phong hàn được bài xuất ra ngoài bì bệnh mới khỏi được.
Tôi từng quan sát trên lâm sàng, nói chung khi phong hàn tà khí ngoại tiết, đa phần bài xuất qua phương thức giống cảm mạo, hắt hơi, chảy nước mũi, hoặc dựa theo một số huyệt vị trên kinh lạc, tứ chi, có không ít bệnhnhaan dựa theo đường hô hấp và trung tiện mà bài tà.
Như bệnh nhân có biểu hiện của hen tiểu khí quản sau khi điều trị, mà gặp xuất hiện tình trạng cảm mạo, hắt hơi, chảy nước mũi thì đó là hiện tượng hàn lãnh thông qua đường hô hấp để bài tà.
Một số bệnh nặng cũng có thể thông qua “khái thấu” mà khỏi. Đó là phương diện tà khí theo tam âm mà hướng ngoại ra đến thái dương mà phát thành chứng “khái thấu”. Sau vài ngày bệnh giảm mà cơ thể phục hồi.
Ngũ âm thông ngũ tạng. Bệnh khí trong ngũ tạng có thể thông hầu họng, mũi mà bài xuất ra ngoài.
6/ Kinh lạc cơ biểu
Có bệnh nhân xuất hiện cơ nhục, khớp xương toàn thân đau đớn kịch liệt, hoặc có đau bụng, thậm chí là đau không chịu được. Rất ít trường hợp bệnh nhân xuất hiện mê loạn 1-2 tiếng, đây là phản ứng của dương khí vận hành trong kinh lạc khu trục âm tà tiềm ẩn. Khi đó toàn bộ tổn thương trên cơ thể đồng loạt khôi phục cơ năng. Nếu như thân thể có „thấp nhiệt cảm-cảm giác nóng ẩm toàn thân-kiểu bừng nóng ra mồ hôi dâm dấp?“, thì đó là do khí huyết vận hành thông sướng trong kinh lạc mà vượng thịnh, đó là phản ứng tự nhiên.
Có những bệnh nhân mắc bệnh nặng như cơ nhục „nuy súc-teo rút“, thì phản ứng này càng mãnh liệt, đau đớn không chịu nổi. Mà lại còn có thể kèm theo ẩu thổ, miệng đắng, phát nhiệt, đó đều là dương khí cơ thể thịnh vượng trỗi dậy để khôi phục bệnh thể, là biểu hiện khứ tà thông qua kinh lạc cơ biểu hướng ra ngoài. Trên lâm sàng tôi từng thấy có bệnh nhân đau đớn kịch liệt vài ngày, thậm chí 1-2 tháng, nhưng sau đó cơ nhục không còn „nuy súc“ mà dần đầy đặn trở lại. Có thể nói: khi tình trạng cơ nhục nuy súc được phục hồi thì thường sẽ kèm theo đau đớn, nhưng đó là nỗi đau hạnh phúc. Đây là loại phản ứng khôi phục kinh lạc kì bí nhất, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa lòng tin của bệnh nhân với sự định kiến của bác sĩ.
Lại nói, tà khí làm khách ở các bộ vị trên cơ thể là khác nhau, sự bài tà qua các huyệt vị cũng là khác nhau. Ví như bệnh tà ở Thiếu âm kinh Tâm, Thận thâm phục vào Tâm bào kinh, do huyệt Lao cung mà bài xuất ra ngoài thì huyệt Lao cũng sẽ phát lạnh, xuất hiện „chẩn tử“. Nếu như huyệt Lao cung đóng lại, bệnh khí không có đường bài xuất, sẽ lưu lại ở Tâm bào kinh, sẽ khiến cho các bộ vị Vị, Tâm tạng không thoải mái. Thường có biểu hiện buồn nôn, nôn, vùng tâm đau, đau đầu, chóng mặt, nặng thì có thể bị sốc. Khi này dùng châm cứu sơ thông Tâm bào kinh, bệnh nhân cũng tự nên xoa bóp các huyệt ở Tâm bào kinh cũng như Đản trung, Côn lôn để hỗ trợ bài tà. Tà khí ở Thiếu âm Thận kinh thường thông qua huyệt Dũng tuyền ở lòng bàn chân, có khi vùng huyệt Dũng tuyền hoặc giữa Nhiên cốc với Dũng tuyền thấy phát „hồng chần“, lúc này sử dụng Ma hoàng Phụ tử Tế tân thang rất là tốt. Tà khí ở Dương minh kinh có thể thoát ra theo huyệt Thương dương, biểu hiện là huyệt Thương dương đau, hoặc nổi hồng chẩn. Nói chung tà khí toàn bộ cơ thể sau cũng cũng theo Thái dương kinh mà bài xuất. Do đó, trên lâm sàng thường gặp không ít bệnh nhân bì đâu ngón chân út sau quá trình trục tà. Lúc này cần tăng cường bài tà chứ không phải tập trung vào điều trị đau ngón chân út.
7/ Khổng khiếu
Khổng khiếu là nơi tà khí dễ xâm nhập, và nó cũng là một trong chững nơi để trục tà khí ra ngoài. Trên người chúng ta có không ít khẩu khiếu như mắt, tai, mũi, miệng, hạ âm, giang mông, niệu đạo,v.v... Sau khi điều trị nếu đột nhiên chân răng sưng nóng, hoặc đau trong tai, hoặc chảy máu mũi, hoặc đầu lưỡi, môi bỏng rộp, hoặc họng vừa đau vừa khô, hoặc sáng dậy nhiều dử mắt, hoặc phúc tả, hoặc có cảm giác đánh trống trong tai, tai ù,v.v...đều là phản ứng sau khi dương khí thông sướng, tà khí từ trong khiếu bài xuất ra ngoài. Phúc tả nói chúng là quá trình tà khí của lục phủ bài xuất. Tai là một nơi để tà khí của Thiếu âm thận bài xuất, có lúc cũng xuất hiện ù tại trong thời gian ngắn, đó là phản ứng của tà khí bài xuất, chỉ ù một lúc là sẽ dừng.
Lại như phụ nữ do hàn tà quá nặng mà kinh nguyệt rối loạn, hoặc băng lậu, hoặc lâm ly bất chỉ, sau khi dùng thuốc có thể dừng kinh khoảng 1 tháng rồi đến tháng tiếp theo kinh nguyệt sẽ lại thông, hoặc sau khi dừng thuốc thì ngay tháng đấy sẽ có kinh trước kỳ vài ngày, thậm chí 10 ngày, nhưng đến tháng sau sẽ lại như bình thường; lượng máu kinh ra có thể ra nhiều hơn bình thường, nhưng không bị mệt như mọi khi; sau vài huyết khối sẽ theo máu kinh ra ngoài, màu của máu kinh như màu của nước tương. Những bệnh nhân vô sinh thuộc loại hình hư hàn có thể nhờ đó mà lại có thai. Khối u nang buồng trứng có thể bị phá vỡ, xuất huyết, sau khi trị khỏi thì sức khoẻ sinh sản khôi phục lại bình thường. Có bệnh nhân xuất hiện tiểu ra máu, đó là có thể của viêm niệu đạo, và viêm âm đạo. Chứng trạng trên lâm sàng thiên biến vạn hoá, người làm thầy thuốc phải rất nỗ lực.
8/ Phản ứng bài tà theo trình tự lục kinh
Khi tà thâm nhập vào Quyết âm, nếu như đột nhiên xuất hiện tâm hoảng, hoặc miệng khát, hoặc không thể ăn uống, nặng thì xuất hiện buồn nôn, nôn. Điều này nghĩa là tà khí từ Quyết âm bệnh truyền đến Thiếu âm, Thái âm, bệnh căn đã bắt đầu vận động. Khi đó đáng phải tăng liều lượng dược vị, hoặc gia thêm Lý trung hoàn để phù trợ Thái dương, hoặc thích hợp thì “đa khát điểm thuỷ-khát nhiều mà uống nước ít một”.
Nói chung, tà khí khi bài xuất theo trình tự thì từ âm ra dương. Tức là từ Quyết âm đến Thiếu âm mà đến Thái âm. Từ Dương minh, Thiếu dương mà đến Thái dương. Từ Thái âm thường thường bài xuất ra Dương minh, mà bài xuất ra bến Thái dương thì tức là đến cơ biểu.
Nhưng cũng có khi từ Thiếu âm trục tiếp bài xuất ra Thái dương. Do là Thiếu âm và Thái dương có quan hệ biểu lý, hai kinh này có thể hỗ căn hỗ truyền. Nếu như có Thiếu âm thể chất dương khí bất túc thì khi cảm tà khí sẽ trực tiếp truyền trừ Thái dương vào Thiếu âm. Ví như đội tử sau cảm mạo, hoặc từ cảm mạo, ho hắng mà biến thành viêm cơ tim, viêm thận, đều là thuộc về Thiếu âm dương hư thể chất. Kì thực, điều trị viêm cũng có tương tự như cảm mạo, điều trị trực tiếp và thường có hiệu quả. Viêm thận cấp tính thường cũng chỉ cần qua vài ba vị thuốc cơ bản cũng trị khỏi. Điều quan trọng là phải nắm bắt được đường xuất nhập của tà, xét theo lục kinh biện chứng mà điều trị nhanh chóng đạt hiệu quả, điều này Tây y cũng không thể lý giải.
9/ Bộ vị nhô ra khỏi cơ thể cũng có thể là bộ vị bài xuất bệnh tà
Những phần nhô ra khỏi cơ thể như là tứ chi, đầu, mũi,v.v...Khi dương khí cơ thể sung túc, nó sẽ được vận chuyển từ thân ra đến các bộ phận nhô ra khỏi cơ thể về trục tà khí ra khỏi các bộ vị này.
Nếu đột nhiên đau đầu không thể chịu được, hoặc đau sau đầu gáy, thiên đầu thống, đau trước trán, đó là dương khí sung túc, khứ tà ra ngoài, là phản ứng tự nhiên của tà khí và chính khí cơ thể giao tranh. Khi đau càng nặng là chính tà giao tranh càng gay gắt, cần tiếp tục uống thuốc hoặc tăng liều để trợ dương khứ tà.
Có lúc thì tứ chi xuất hiện chẩn tử, hoặc đau, hoặc tê dại, hoặc phát ngứa, cũng đều là tà khí không thể ở trong tà khí mà đào thoát qua tứ chi ra ngoài.
10/ Phản ứng tình cảm
Các phản ứng cảm xúc tự phát như khóc, cười, la hét, rên rỉ, hát và nói năng có thể là phản ứng bài tà. Tuy nhiên tỉ lệ của nó rất là thấp. Các phản ứng cảm xúc khác nhau xảy ra trong các trạng thái tâm lý khác nhau.
Khóc: hầu hết xa ra sau khi bi thương, lo lắng, trầm uất. Sau khi bị tổn thương, muốn khóc mà không thể phát tiết sẽ khiến vùng tương ứng của vỏ não căng thẳng. Trên lâm sàng tôi thường thấy bệnh nhân có chứng trầm uất, sau khi điều trị châm cứu, xuất hiện khóc lóc không thể khống chế, sau khi khóc tình trạng trầm uất nhẹ hơn trước. Thường thường bệnh nhân cần khóc nhiều lần để hoàn toàn giải can khí uất.
Ví dụ như phụ nữ sau khi điều trị có người xuất hiện phiền táo, bi thương, khóc lóc không rõ nguyên nhân, sau vài ngày đột nhiên các chứng trạng biến mất, bệnh tật cũng theo đó được hoãn giải hoặc trị khỏi. Đây là phản ứng thường xuất hiện ở những người có uất khí uất trệ. Bao gồm những bệnh nhân u xơ tử cung, u nang buồng trứng, tuyến vú tăng sinh, đều là do can khí ban đầu uất trệ, sau trở thành khí trệ đàm ngưng mà thành bệnh. Do đó, sau khi phù trợ dương khí, thũng khối dần dần thu nhỏ, chứng trạng giảm nhẹ hoặc khỏi.
Cười: nói chung những người có tâm khí không được thoải mái. Sau khi dùng thuốc Đông y, bệnh nhân tâm khí sung túc, huyệt Đản trung khai phóng, có đôi lúc đột nhiên cười lớn.
Gào thét: đa phần gặp ở bệnh nhân có chứng trạng trầm uất, khi tà khí bài xuất thì tự phát gào thét, kêu to, điều này liên quan đến nội khí trong Đan điền hoạt động kịch liệt, mãnh liệt phá bỏ uất khí.
Rên ri: đa phần gặp ở bệnh nhân bệnh xâm nhập, suy kiệt lâu ngày. Sau khi dùng thuốc dương khí bệnh nhân bắt đầu khứ tà, tự phát thành những tiếng rên rỉ hoặc ngáp. Rên rỉ là biểu hiện của khí quy về Đan điền, là do khí ở Đan điền bị tổn thương nay được điều tiết mà biểu hiện thành như vậy. Ngáp có thể trợ giúp bài xuất bệnh khí ở trong cách mô. Sau khi ngáp, áp lực trong khoang ngực, khoang bụng được điều chỉnh, có tác dụng làm thuận khí trong ngực.
Ca hát: tỷ lệ phát sinh rất thấp. Trong quá trình dương khí của bệnh nhân trở nên sung túc, cũng có kèm theo có “hôn thuỵ-lơ mơ không tỉnh táo”, nhưng người đang mơ. Tại thời điểm này có thể phát sinh ra tình trạng ca hát.
Nói năng: tỷ lệ phát sinh cũng rất thấp. Trước tiên bệnh nhân tự chuyển động đầu lưỡi, liên tục phát ra âm thanh. Đây là biểu hiện sau khi tâm khí sung túc, tâm khai khiếu ở lưỡi, tâm chủ ngữ ngôn mà tự phát thành.
Thời gian phản ững mỗi người mỗi khác. Nói chung thời gian biểu hiện bệnh ngắn nhất khi ở kinh lạc, lâu hơn một chút khi ở lục phủ, và lâu nhất khi ở ngũ tạng. Phản ứng bài tà có liên quan đến thể chất và mức độ dương khí của bệnh nhân, dễ nhất khi dương khí thịnh, còn khi dương khí hư thì rất khó bài tà. Liều lượng thuốc cũng ảnh hướng đến tốc độ bài tà. Nói chung ở những bệnh nhân không bị hư chứng, liều lượng thuốc dùng có thể lớn thì tốc độ bài tà cũng nhanh hơn. Ví như người mắc cảm mạo, nếu là hư nhân ngoại cảm thì trước tiên phải phù chính khư tà, còn nếu bệnh nhân không bị hư chứng thì chỉ cần 1-2 tễ thuốc là đã có thể bài tà.
Đăng nhận xét