Gan lách sưng lớn có biểu hiện là 2 sườn bĩ khối, kèm theo đau, bộ vị cố định, dấu hiệu này có thể kéo dài từ đầu cho đến cuối bệnh, sau tai hoặc sau lưng có vết máu bầm, lưỡi tím, mạch Trầm Sáp, biểu hiện là chứng hậu điển hình của “ứ huyết thành tích”. Vì vậy phép trị cơ bản khứ ứ nhuyễn can được sử dụng từ đầu cho đến cuối.
Nam, 43 tuổi, do viêm gan, gan ngạnh hoá dẫn đến hiếp hạ bên phải có tình trng gan sa xuống bờ sườn hơn 8 năm, điều trị lâu ngày không khỏi, nằm dài trên giường không thiết sống.
Tôi muốn điều trị bệnh nhân này nhưng còn đang đắn đo, chợt nhớ trong <Kim quỹ yếu lược> có nói về phép “hoãn trung bổ hư” để trị hư lao, và trong <Tê hà tử diệu phương> có nói về 1 phương làm nhuyễn can của Trương Quả lão. Thấy chúng rất phù hợp với bệnh nhân này, nên quyết định lấy tuấn dược tán phục, hoãn công kì chưng, đồng thời căn cứ bệnh tình phức tạp mà dùng làm thuốc thang sắc để phù chính khứ tà.
Cứ như vậy điều trị hơn 10 tháng, bệnh tình chuyển biến ngày một tốt, liên tục điều trị trong 3 năm, đã có thể ra khỏi giường, lại điều trị thêm 2 năm, khiểm tra lại đã thấy gan không còn xơ cứng, công năng gan cũng khôi phục bình thường. Từ đó thường sử dụng Trương Quả lão nhuyễn can tán điều trị nhiều trường hợp gan lách sưng lớn mà nhận được nhiều kết quả khả quan.
Trương Quả lão nhuyễn can tán: Thuỷ điệt 60g, Giá trung 20g, Thục đại hoàng 15g, Tam thất 15g, Diên hồ sách 20g, Miết giáp 30g, Kê nội kim 15g. Các vị trên nghiền thành bột, mỗi lần 3-5g, ngày 2-3 lần.
Thuỷ điệt là thứ thuốc có thể phát huyết trục ứ tiêu chưng, nhưng nếu sử dụng quá nhiều thì sẽ làm tổn thương chính khí, do đó khi sử dụng phải cẩn thận, cận đại có danh y Trương Tích Thuần, ông chỉ ra rằng Thuỷ điệt có tác dụng phá ứ huyết mà không làm tổn thương tân huyết, có liên quan đến sự hoá sinh của tinh thuỷ, cũng không làm tổn thương khí phận, mà cái ứ huyết thì tiêu tán vô hình.
Thuỷ điệt và Giá trung đều là thuốc loại côn trùng, nhập huyết nhuyễn kiên, phối với Thực đại hoàng, Tam thất và Diên hồ sách để phá huyết tiêu trưng.
Miết giáp tính mặn hơi hàn, nhập túc quyết âm can kinh huyết phận, ngoài ra cũng có tác dụng nhuyễn kiên tán kết, là “lương dược” để làm nhuyễn can
Kê nội kim là thuốc tiêu thực thì nhiều người đều biết, còn tác dụng tiêu trưng tích thì ít người biết. <Y học tham trung trung tham tây lục> chỉ ra rằng, Kê nội kim không chỉ có thể tiêu tích ở Tỳ Vị, mà bất luận tạng nào có tích tụ thì cũng đều có thể tiêu trừ, là lấy nam tử huyền tích, nữ tử trưng hà, uống trong thời gian dài, đều có thể trị khỏi.
Các vị thuốc kết hợp, nhập lạc mạch huyết phận, công động trưng tích, khai thông huyền phủ, huyền phủ nhất khai thì khí huyết sơ thông, gan lách cũng từ sưng lớn mà trở lại hình dáng công năng ban đầu.
Khi mới dùng thuốc sẽ thấy phân hỏi lỏng, nhưng khi dùng lâu sẽ không còn triệu chứng này nữa. Những bệnh nhân thường có chính khí hao tổn, dễ bị cảm mạo, hoặc xương khớp đau nhức, hoặc ho suyễn, hoặc chân răng sưng đau, hoặc chảy máu cam, hoặc chảy máu chân răng, xuất hiện nhiều tình huống khác nhau, có thể tạm dừng Trương Quả lão nhuyễn kiên tán, tiến hành biện trị khác để sau khi trị khỏi các chứng trên thì lại có thể tiếp tục dùng
Tác giả: Lưu Uyên

Đăng nhận xét