Mười năm trước tôi bắt đầu tiếp xúc với Trung y. Trong quá trình đọc sách tôi được biết <Thương hàn> và <Kim quỹ> là phạm trù kinh điển về lập pháp xử phương của Trung y. Vì vậy tôi bắt đầu nghiên cứu hai cuốn sách này. Tuy nhiên có điều tôi rất băn khoan, mặc dù Trung y nói chung rất tôn sùng Trọng Cảnh nhưng họ hiếm khi sử dụng đơn thuốc của Trọng Cảnh. Tôi đã hỏi những người hiểu biết về y học Trung Quốc, có rất nhiều ý kiến trái chiều nhau, nhưng chỉ yếu vẫn chỉ xoay quanh 2 điểm sau:
1/ Trọng Cảnh và chúng ta sống trong hoàn cảnh thời gian, địa điểm khác nhau, do đó khó có thể vận dụng các phương của Trọng Cảnh, đặc biệt là điều trị bệnh có tính lưu hành và điều trị ôn bệnh bằng vệ khí dinh huyết đã được phát triển để thay thế cho lục kinh của thương hàn.
2/ Nhưng phương của Trọng Cảnh rất chặt chẽ và gắn gọn, nếu như biện chứng bất cẩn hoặc không chặt chẽ gây ra sơ suất thì tai hoạ khôn lường, nó không đơn giản và dễ nắm bắt như các phương của thế hệ sau.
Hai điều trên tuy hợp tình hợp lý nhưng khó loại bỏ nỗi băn khoăn trong lòng tôi
Mùa hè năm 1972, tôi thi thoảng bị “lưu cảm-cúm mùa”, đã dùng các bài như Tang cúc cẩm, Ngân kiều tán,v.v…nhưng đều không có hiệu quả tốt. Sau khi tổng hợp lại chứng trạng tôi thấy có phần giống với Ma hoàng thang chứng, tức thì dùng thử 1 tễ Ma hoàng thang, trong phương dùng Ma hoàng đến 2 tiền, tôi ra hàng thuốc mua nhưng bị từ chối vì “đang là tháng hè mà dùng 2 tiền Ma hoàng, thực là coi mạng người là trò chơi trẻ con ư?”. Sau khi miễn cưởng giải thích nhiều lần, rút cục tôi cũng mua được 1 tễ, sau khi uống thuốc liền ra mồ hôi, 1 tễ mà khỏi bệnh. Do đó phải để tâm chú ý, phương chứng phải tương ứng, do đó phương của Trọng Cảnh thực ra không phải không phù hợp với người ngày nay, cũng không phải là không tránh được hoại chứng nếu dùng nhầm. Do đó khi tiến hành điều trị, ắt phải đánh giá mức độ phù hợp giữa chứng trạng, chứng trạng với phương chứng của Trọng Cảnh thì mới được dùng Kinh phương, khi đó hiệu quả có thể sẽ được vang như đánh trống. Dưới đây là một số trị nghiệm trong vài năm gần đây của tôi sử dụng Kinh phương:
[Trường hợp 1]
Ngày 9/3/1975 có 1 bé giái 7 tuổi là con của 1 giáo viên, bẩm tố khoẻ mạnh, đột nhiên lên cơn sốt cao 40 độ cách đây 5 ngày, ho suyễn, kiểm tra công thức máu: Bạch cầu là 20000/mm3, tỉ lệ trung tính là 78%. Một bác sĩ trong viện chẩn đoán là viêm tiểu khí quản, điều trị bằng thuốc Tây y thông thường, hiệu quả không quá tốt, chuyển sang Trung y điều trị. Khám thấy biểu hiện là phát nhiệt ố hàn, chảy nước mũi trong, kêu la đau đầu, khí suyễn mà ho, vô hãn, suy nghĩ nên giải biểu phát hãn tuyên phế bình suyễn, cho dùng Ma hoàng thang (Sinh Ma hoàng nửa tiền, Quế chi 1 tiền, Hạnh nhân 2,5 tiền, Sinh cam thảo 1 tiền), sau khi uống được 3 tiếng thì ra mồ hôi, sốt hạ, các chứng đều khỏi.
[Trường hợp 2]
Ngày 10/8/1875 một đứa bé 3 tuổi, vì 4 ngày nay sốt cao liên tục, thần chí lơ mơ, cổ gáy cứng,v.v…nhập viện điều trị, Tây y nghi ngờ viêm não. Do gia đình từ chối làm xét nghiệm tuỷ sống và các xét nghiệm khác nên không chẩn đoán được. Chỉ có thể dùng “Trung Tây dược vật” điều trị triệu chứng nhưng triệu chứng ngày càng tăng nặng. Đứa trẻ dần rơi vào trạng thái mê man, nhiệt độ cao lên đến 41 độ C, trán rất nóng, mà 2 chân lạnh ngắt, mạch Phù Sác 130 chu kỳ/phút, người nhà thấy rằng sốt cao không hạ, lại đắp khăn lạnh lên trán liên tục, bật quạt để giám nóng, mà đứa trẻ thì dựng hết cả lỗ chân lông, tức là trạng thái ố phong hàn, kiểm tra thấy lưỡi trắng mà hoạt, cổ gáy cứng nhẳng, hỏi ra thì không có mồ hôi, thì thoảng có “xạ trạng ẩu thổ-nôn vọt”. Đang thấy cổ gáy cứng, phát nhiệt ố hàn vô hãn, mạch Phù Sác, rêu lưỡi trắng hoạt là chủ chứng, lại kèm theo ẩu thổ,…cho dùng Cát căn thang gia Bán hạ để giải cơ phát hãn, thăng tân thư lạc, chỉ ẩu giáng nghịch, chủ dùng Cát căn 3 toeefn, Sinh Ma hoàng nửa tiền, Quế chi 1 tiền, Bạch thược 2 tiền, Sinh thảo 1 tiền, Đại táo 3 quả, Sinh khương 2 tiền. Đồng thời dặn người nhà, tình trạng sốt này là phản ứng của cơ thể, không cần tác động từ bên ngoài nào để hạ nhiệt cả. Sau 2 giờ uống thuốc, ra mồ hôi, nhiệt độ giảm còn 38 độ, miệng khát muốn uống, hết nôn mửa. Giờ ngồi trước quạt cũng không còn trạng thái sợ gió lạnh, nhưng tinh thần vô cùng mệt mỏi, không muốn mặc áo, tiểu tiện cũng vàng, đại tiện chưa đi, mạch chuyển Hồng Đại, biến bệnh tình mới chuyển vào Dương minh, mà “Dương minh vô tử chứng”, là biết thời kì bệnh nguy hiểm đã qua, tức thì cho dùng Bạch hổ gia Nhân sâm thang 2 tễ, sau đó hết sốt, người mát, các chứng cũng biến mất, cũng không để lại di chứng gì.
[Trường hợp 3]
Bé nam 3 tuổi, khám ngày 9/8/1976, là cháu trai của tác giả, phát sốt nhẹ buổi sáng, sốt cao vào buổi chiều tối (37,3-38,2 độ C) nửa tháng nay không đỡ, được bệnh viện chẩn đoán là nhiễm trùng huyết mãn tính do nhiễm trùng nhụt nhọt trên đầu sau khi mắc bệnh sởi, điều trị bằng kháng sinh như erythromycin, benzisoxazole penicillin và uống Linh dương giác, nào ngờ Bạch cầu ngày càng tăng, chứng trạng trở nên ác hoá. Muốn chuyển lên viện trên thành phố điều trị nhưng do nhiều lý do không thể chuyển đi được, nên chuyển sang Trung y điều trị. Chứng biểu hiện: tinh thần uể oải, biểu tình đạm bạc?, sắc mặt trắng nhợt, thích yên tĩnh muốn ngủ, chảy nước mũi trong, thích mặc áo, không khát, chán ăn, tiểu tiện trong dài, tay chân lạnh, trán ra mồ hôi lạnh, chất lưỡi nhợt, rêu trắng mỏng, mạch Trầm Tế vô lực 100ck/phút, Bạch cầu 19000/m3, trung tính 72%, huyết sắc tố 9g, nhiệt độ 37,4 độ, đối với các chứng trạng này, tôi cho là bệnh do khí huyết hư thiếu, chính khí bất túc, lại gia thêm cảm mạo phong hàn, chứng nhược tà cường mà thành ra vậy. Đáng cấp phải trợ dương giải hữu, dùng Ma hoàng Phụ tử Tế tân thang (Sinh Ma hoàng 6 phân, Phụ tử 2 tiền, Tế tân 6 phân), dừng mọi thuốc Tây y đang sử dụng. Sau khi uống thuốc khoảng 5 tiếng, tinh thần bắt đầu có khởi sắc, nhiệt độ cơ thể khôi phục bình thường, tay chân cũng hơi ấm, mỗi ngày đại tiện 2 lần hôi thối, phân mềm, chảy nước mũi và ra mồ hôi lạnh cũng biến mất. Đây cũng là điều mà Lục Uyên Lôi đã nói: “thiếu âm bệnh, tại trị liệu trung, thủ túc ôn, hạ lợi vi chính khí khôi phục, kháng bệnh sở sinh chi đại xạ phế vật tích tự ở trường gian giả, nhân dĩ bài trừ thấp vi âm chứng hồi dương chi cơ”. (trích trong <Thương hàn luận kim dịch> P374-P375). Biết là biểu chứng đã giải, chính khí khôi phục, dùng tiếp 3 tễ Phụ tử thang, sau 4 ngày tôi đến khám lại đã thấy bé ngồi dậy chơi một mình trên giường, đại tiện và nhiệt độ cơ thể đều khôi phục bình thường, chỉ còn hơi sợ lạnh và dễ mệt mổi, sắc mặt còn trắng, mạch Tế Trầm, đầu lưỡi còn hơi đỏ, kiểm tra CT máu: Bạch cầu là 16600/m3, trung tính 76%, tiếp tục dùng Phụ tử thang 7 tễ, đến ngày thứ 11 đến khám lại, kiểm tra CT máu về bình thường, Bạch cầu 9800/m3, trung tính 42%, bạch cầu ái toan cũng đã xuất hiện trở lại.
Qua trường hợp này, tôi càng hiểu rõ ý văn trong của các phương trong thiên Thiếu âm bệnh của Trọng Cảnh. Thiếu âm bệnh, “mạch vi Tế, ố hàn (các nhà chú thích bổ sung), đãn dục mị”, đương nhiên đó là biểu hiện công năng của cơ thể suy giảm. Do có Nhân sân phù chính, Phụ tử hồi dương nên việc trước mắt là chính khí mạnh, dương khí hồi được giải quyết, bệnh tà cũng sẽ tự thoái lui, bệnh tình cũng theo đó mà chuyển từ nặng sang nhẹ, biến nguy thành an.
[Trường hợp 4]
Nữ 40 tuổi, khám ngày 4/8/1975 vì cách đây 12 ngày bị cảm hàn, đau đầu, phát nhiệt hàn chiến, uống Tây y 3 ngày không hiệu quả, đổi dùng Trung y bài Ngân kiều tán 2 tễ, chứng trạng trái lại tăng kịch, sau lại dùng thuốc khứ thử giải biểu cũng vô hiệu. Chuyển sang tôi điều trị, chứng biểu hiện mạch Huyền, rêu lưỡi trắng, hàn nhiệt vãng lai, nhiệt độ là 38,5 độ, miệng đắng mắt hoa, đầu đau kịch, họng khô táo mà đau, tức ngực, hiếp trướng, tiểu tiện ngắn, đại tiện 4-5 ngày nay chưa đi, sắc mặt phát vàng, vô hãn, mũi tắc chảy nước mũi, ho khan không đờm, toàn thân đau nhức, ăn kém, miệng khát thích uống nước, uống vào không thoải mái, buồn nôn muốn nôn, mất ngủ,v.v…đây là tam dương hợp bệnh, chứng trạng phức tạp. tôi ban đầu dựa theo lý luận của thiếu dương, tôi cho dùng Tiểu sài hồ thang hoà giải thiếu dương, sau khi dùng 2 tễ, các chứng dần giải, ăn uống cũng dần tăng tiến, nhưng xuất hiện ho hắng nhiều dờm, đờm trắng dễ khạc, hơi có sợ lạnh phát sốt, mạch Phù rêu nhuận, cho đổi thành Tiểu thanh long thang 2 tễ để giải biểu hoá ẩm, sau khi dùng thuốc, hết sốt, hết ho, các chứng đều yên.
Đây là trường hợp chứng trạng phức tạp, ban đầu tôi cũng cảm thấy rối, nhưng thấy chứng của Tiểu sài hồ là rõ nhất nên cho dùng Tiểu sài hồ thang, khi chủ chứng được giải thì các chứng khác cũng dần hoãn giải, chỉ còn một chút của biểu chứng và ẩm nên dùng 2 tễ của Tiểu thanh long thang mà bệnh khỏi.
[Trường hợp 5]
Ngô Dương Sơn 30 tuổi, nam, công nhân. Sau ngoại cảm 3 ngày bị đau đầu, ố hàn, vô hãn, miệng khát phiền táo, tiểu tiện vàng, họng đỏ sưng đau, mạch Phù Sác, rêu hơi vàng, nhiệt độ 38,7 độ. Đây là ngoại cảm phong hàn, biểu chứng chưa giải, dã có khuynh hướng truyền vào lý. Dùng 1 tễ Đại thanh long thang giải biểu, thanh nhiệt trừ phiền, sau 1 tễ nhiệt giảm người được yên. Trường hợp này có phần giống với trường hợp (4), do bệnh mới, chưa điều trị gì mà đã có khuynh hướng truyền vào trong, do đó dùng 1 tễ Đại thanh long thang mà bệnh được yên. Còn trường hợp trên thì do liên tục điều trị sai, khiến cho bệnh kéo dài làm tổn thương chính khí.
[Trường hợp 6]
Vợ của 1 ngư dân, 40 tuổi, khám ngày 10/9/1975 đến khám vì 3 ngày trước bị viêm túi mật, vùng quản phúc đau kịch liệt, ẩo thổ kịch liệt, uống nước không qua được họng, uống vào là nôn. Mạch Hồng Huyền, rêu vàng dính, hàn nhiệt vãng lai, miệng đắng, hung hiếp khổ mãn, đặc biệt sườn phải càng đau, vùng túi mật và tâm hạ trướng thống cự án, đại tiện bí kết 3 ngày chưa đi, chứng thuộc Thiếu dương Dương minh hợp bệnh, dùng Đại sài hồ thang ngoại giải thiếu dương, nội tả nhiệt kết làm phép trị, người nhà sợ uống thuốc vào sẽ nôn, nào ngờ không những không ngôn mà chỉ sau khi uống thuốc 10 phút bụng đã hết đau.
Trường hợp này cần chú ý 1 đặc điểm, nếu uống thuốc mà nôn thì tức là dược chứng không phù hợp, là phản ứng đề kháng của cơ thể với thuốc.
[Trường hợp 7]
Nam 43 tuổi, khám ngày 6/3/1975, bị cao huyết áp sau khi mắc bệnh gan, huyết áp liên tục đạt khoảng 200/100mmHg, 2 năm nay dùng các loại Trung Tây dược để hạ áp nhưng chưa thể trị được tận gốc, nên đến khám. Mạch Trầm Tế, chất lưỡi nhợt, rêu trắng, cổ gáy cứng, hung hiếp khổ mãn, hiếp hạ bên phải ấn đau rõ rệt, cơ thẳng bụng bên phải cũng co cứng ấn đau, khí thượng xung ngực, quan rốn thường có động quý, đại tiện nát 1 ngày 3-4 lần, tiểu tiện bất lợi. Chứng thuộc thuỷ ẩm cản trở ở bộ vị của Thiếu dương, dùng Sài hồ Khương Quế thang. Bệnh nhân không dám uống các loại thuốc cay nóng như Quế chi, Can khương trong phương. Do đó nói: “Trung y dựa vào chứng luận trị, không bảo thủ thành quy củ, Tây y chẩn đoán Cao huyết áp, đó chỉ là 1 phần của chứng trạng, mà không phải là toàn bộ chứng trạng. Cao huyết áp chỉ là kết quả của nhiều nguyên nhân chứ không phải là nguyên nhân gây bệnh. Nhờ vào việc thuốc huyết áp không thể khống chế tận gốc bệnh cao huyết áp nên ta có thể biết được điều đó. Hiện tại tôi cho rằng, bệnh này do thuỷ ẩm lưu trệ ở thiếu dương mà thành, do đó ắt phải tiến hành khai đạo thiếu dương, toại trừ thuỷ ẩm, dùng Sài hồ Khương Quế thang, cứ phải sử dụng chứ đừng ngần ngại. Do đó liên tục dùng 10 tễ mà các chứng giảm nhiều, huyết áp giảm xuống còn bình thường, kiểm tra định kỳ nhiều lần đều khoảng 145/75mmHg.
Trường hợp này đã nói rõ, Trung y trị bệnh không phụ thuộc vào chẩn đoán của Tây y, cũng không giống hoàn toàn với những khuôn mẫu thường quy, mà phải xét chứng dụng dược kiêm chứng luận trị, bằng không sẽ không hiểu được tại sao lại dùng Khương Quế tân nhiệt phát dương cho bệnh nhân cao huyết áp chứ đừng nói đến việc chữa khỏi.
[Trường hợp 8]
Nam 4 tuổi, khám ngày 4/7/1975 vì đi đại tiện thấy phân có lẫn mủ máu, Tây y chẩn đoán là lỵ mãn tính, điều trị không hiệu quả, sau đó chuyển sang Trung y cho dùng Bạch đầu ông thang là tễ khổ hàn, bệnh tình tăng kịch, chuyển sang tôi chẩn trị. Khám thấy mạch Trầm Tế 90ck/phút, lưỡi nhợt, rêu trắng mỏng, bụng mềm nhuyễn vô lực, tâm hạ bĩ kiên, không khát, tiểu tiện sắc trong, đại tiện 1 ngày 8-9 lần, lượng ít, khuôn phân bé, kèm theo dịch nhầy, có lẫn máu, không có biểu hiện đau bụng, kêu khóc, chứng thuộc trung dương bất túc, Tỳ Vị hư hàn, cho dùng Lý trung thang gia vị (Đẳng sâm 3 tiền, Bào khương thán 2 tiền, Bạch truật 3 tiền, Chích thảo 1 tiền, Đại du thán 1 tiền, Kinh giới thán 1 tiền) 2 tễ bệnh khỏi.
Bệnh hạ lợi dùng Bạch đầu ông thang là rất hay gặp, nhưng nó là không đủ, như trường hợp này là một ngoại lệ.
[Trường hợp 9]
Nam 30 tuổi, khám ngày 5/10/1974 vì bệnh tình kéo dài nửa năm nay, Tây y chẩn đoán là Huyết áp thấp kèm viêm đại tràng mạn tính, điều trị không hiệu quả, sau đó được người quen giới thiệu đến khám. Bệnh nhân người gầy, hơi vàng, tiếng nói nhỏ nhẹ. Tinh thần mệt mỏi vô lực, tâm hạ bĩ ngạnh, có tiếng sôi bụng, chóng mặt, tiểu tiện bất lợi, đại tiện mỏng nát, 1 ngày vài lần, miệng không khát, ố hàn, hay nhổ nước bọt, hay lờ đờ buồn ngủ cả ngày, mạch tượng cả 2 bộ xích và 2 bộ quan đều Trầm Trì, lưỡi nhợt rêu trắng, huyết áp 60/30mmHg, chứng thuộc Thái âm bệnh, trung dương bất túc, Tỳ Vị hư hàn, phù hợp thì nên ôn vận trung tiêu, bổ khí kiện Tỳ, cho dùng Phụ tử lý trung thang, sau khi dùng thuốc rất có hiệu quả, thấy phương chứng tương hợp, cho sử dụng tiếp hơn 30 tễ, đồng thời hướng dẫn dùng điếu ngải cứu ở Trung quản, Dương trì bên trái mỗi ngày 1 lần, mỗi lần 10 phút, các chứng dần biến mất, huyết áp cũng khôi phục, chỉ sau khi lao động vất vả mới phát sinh mệt mỏi nên dặn dò vẫn nên dùng thuốc thêm 1 thời gian, và điều chỉnh ăn uống, tập luyện để cải thiện thể chất dần dần.
[Trường hợp 10]
Nam 33 tuổi, khám ngày 5/11/1974 vì 7 năm trước sau khi bị viêm gan thì xuất hiện đại tiện lỏng nát kéo dài, cứ đến 5h sáng là buồn đi đại tiện cấp bách, không thể nhịn được, lượng nhiều, sau đại tiện cảm giác người mệt mỏi cực độ, theo đó mà cân nặng sụt giảm, khoang miệng lở loét đau đớn, tiểu tiện vàng, trung y đều chẩn đoán nhầm là thấp nhiệt, cho dùng thuốc thanh nhiệt lợi thấp, nhưng càng điều trị càng sai, khiến cho bệnh nhân mất niềm tin điều trị. Khám: mạch Nhu Nhuyễn, lưỡi nhợt, rêu vàng dầy dính, đầu lưỡi đỏ có vết trợt loét trên bề mặt, ợ hơi, tâm hạ bĩ, ấn vào có đề kháng, hơi cảm giác không thoải mái, có sôi ruột nhưng không có buồn nôn, nôn, chứng thuộc Thiếu dương bệnh biến thành Vị hư bĩ kết, trung khí thăng giáng thất thường gây nên, do đó cho dùng Cam thảo tả tâm thang 3 tễ, sau khi dùng chưa thấy có hiệu quả, tôi cho rằng cần kiên trì uống thuốc nên khuyên nhủ bệnh nhân, khi uống hơn 10 tễ thì bắt đầu có hiệu quả. Sau đó dùng liên tục 2 tháng, sau đó các chứng trạng đều biến mất, sau 1 năm sắc mặt hồng nhuận, tinh lực sung phế, tăng cân gần bằng hồi trước, phương thuốc tôi sử dụng là Cam thảo 3 tiền, Bán hạ 3 tiền, Hoàng cầm 1 tiền, Can khương 1 tiền, Hồng sâm nửa tiền, Đại táo 3 quả, Hoàng liên 3 phân. Mười thang đầu tiên tôi dùng Hồng sâm, sau đó đổi Hồng sâm thành Đẳng sâm 3 tiền.
Hai trường hợp y án (số 9 và 10) này khiến tôi cảm thấy:
(1) Trung y có thể cải thiện thể chất, mà cải thiện thể chất là phương pháp chữa vào gốc bệnh
(2) Trị bệnh dễ còn cải thiện thể chất mới khó, trị bệnh vài tễ là có thể thấy công hiệu, còn cải thiện thể chất thì phải kiên trì uống thuốc mà cũng khó thu được hiệu quả.
[Trường hợp 11]
Nam 30 tuổi, khám ngày 17/9/1975 vì đau thắt lưng vài tháng nay, điều trị nhiều nơi không hiệu quả, sau đó đến chỗ tôi khám. Mạch toàn bộ Nhu mà tả thốn lại Trầm Vi, hỏi kĩ thì có chứng thất miên, di tinh, đầu huyễn. Phúc chẩn thấy cơ thẳng bụng co cấp, ấn vào không giãn mềm ra được, trên rốn có động quý kháng tiến, chứng thuộc tâm dương hư tổn, tinh quan bất cố, mà dẫn đến Thận hư đau mỏi eo lưng, ban đầu tôi cho dùng Quế chi gia Long cốt Mẫu lệ thang gia Thận khí hoàn 3 tễ, sau khi dùng liên tục hơn 20 tễ, các chứng dần dần biến mất, đặc biệt là chứng mất ngủ đã kéo dài nhiều năm khó chữa khiến bệnh nhân vô cùng đau khổ. Lần này cũng đã được giải quyết, thật là tốt. Đến nay là đã theo dõi được hơn 1 năm, các chứng trạng đều đã trở về bình thường.
[Trường hợp 12]
Bệnh nhân nữ bị viêm đài bể thận mạn tính nhiều năm, thường xuyên lên cơn cấp tính, năm nay bệnh tái phát nhiều lần, người càng lúc càng yếu, dùng nhiều Trung Tây dược mà không có hiệu quả. Khám có mạch 2 bộ xích Phù Đại, Trầm Thiết Vi Tế, lưỡi nhợt, rêu trắng dày dính, vùng gốc lưỡi càng nặng hơn, khám vùng bụng thấy cơ thẳng bụng bên phải co rút ấn đau, hoa mắt chóng mặt, eo lưng cột sống đau mỏi, nó có thể đứng lâu. Đang là đầu mùa thu mà đặc biệt vẫn sợ lạnh, cơ nhục toàn thân thường dễ “cân dịch nhục động-gân cơ run giật”, quanh rốn càng rõ, tiểu tiện nhiều lần lượng ít, xét nghiệm nước tiểu bình thường, ăn kém, đại tiện thường nát, chứng thuộc thận dương hư suy, thuỷ khí nội đình, phép trị nên là ôn thận tán hàn, kiện Tỳ lợi thuỷ, tức thì dùng đại tễ Chân vũ thang (Phục linh 5 tiền, Bạch thược 3 tiền, Bạch truật 3 tiền, Sinh khương 3 tiền, Bào Phụ tử 2 tiền) dùng 3 tễ, các chứng hoàn toàn biến mất
[Trường hợp 13]
Nữ 23 tuổi, khám ngày 6/5/74 vì gần tuần nay thường cảm thấy nóng mặt, nóng tai, tự thấy phiền táo, nhiệt độ cơ thể và huyết áp vẫn bình thường, Tây y không thể xác định chính xác là cái gì, tôi khám thấy mạch Hồng, 2 bộ thốn đều có lực, chất lưỡi đỏ, rêu vàng mỏng, tâm hạ bĩ, ấn vào mềm, ấn sâu thì thấy không thoải mái, bình thường có đại tiện bí, kinh nguyệt lượng nhiều, mấy tháng nay có trước kì 4-5 ngày, sắc đỏ, chẩn đó là tà hoả nội nhiễu, bức huyết vọng hành, cần phải giáng nhiệt tả hoả, khiến huyết được an tĩnh vận hành, tôi cho dùng Tả tâm thang (Sinh Đại hoàng 2 tiền, Xuyên liên 1 tiền, Hoàng cầm 3 tiền), sau khi dùng các chứng đều giảm, sau đó dùng thêm thể lương huyết dưỡng huyết để cải thiện thêm.
[Trường hợp 14]
Nữ 10 tuổi, 1 tháng gần đây thường xuyên đau bụng, cơn đau kéo dài khó khỏi, thời gian gần đây đau tăng hơn trước, có lúc đau quặn, ăn kém, có bác sĩ chẩn đoán là bị Hồi trùng, dùng nhiều thuốc tẩy giun mà không có hiệu quả. Tôi khám thấy mạch Phục rêu lưỡi trắng, phúc chẩn thấy da bụng mỏng, ấn vào lồi lõm không bằng phẳng, có hơi đau, đại tiện lúc nát lúc bí, trong bụng có tiếng sôi lọc xọc, mà sờ thấy tay chân giá lạnh, cho là bệnh nhân bị trung dương suy nhược âm hàn nội thịnh, ắt nên phải ôn trung bổ hư, giáng nghịch chỉ thống, cho dùng Đại kiến trung thang (Thục tiêu 1,5 tiền, Can khương 1 tiền, Đẳng sâm 3 tiền, Giao di 5 tiền) sau khi dùng 5 tễ chứng đau bụng đã hết, ăn uống tốt hơn trước, tình trạng khám bụng thấy lồi lõm không bằng phẳng cũng biến mất, sau 1 năm đã trở lại hoàn toàn bình thường.
Tôi thấy rằng phúc chẩn là 1 chẩn đoán không thể thiếu của Trung y. Trọng Cảnh cũng đã đề cấp đến phúc chẩn và phúc chứng rải rác khắp trong các tác phẩm của mình, y gia hậu thế đa phần bỏ qua việc phúc chẩn này. Ở Nhật Bản từ thời hán phương gia Tự Đức Xuyên đối với phúc chẩn rất là coi trọng, cho đến lâm sàng hiện nay thì phúc chẩn đã có sự phát triển, tôi cho rằng nếu áp dụng thêm sự hiểu biết của Hán phương gia Nhật Bản thì chẩn đoán của Trung y sẽ càng chính xác hơn.
[Trường hợp 15]
Một ngư dân 50 tuổi khám ngày 5/8/1976 vì 3 ngày trước sau 1 đêm ngâm người trong nước lạnh thì đột nhiên xuất hiện “hàn truật-sợ lạnh”, ẩu thổ, đầu huyễn, nhiệt độ cơ thể vẫn bình thường, 1 bác sĩ gần đấy không thể chẩn đoán chính xác nên điều trị không hiệu quả, đến chỗ tôi khám, mạch Nhu, rêu trắng dính, không muốn uống nước, tâm hạ hơi bĩ, chứng thuộc quyết âm bệnh, Vị trung hư hàn, can khí thượng nghịch, đáng nên dùng ôn trung bổ hư, giáng nghịch chỉ ẩu, dùng đại tễ Ngô thù du thang 1 tễ mà khỏi.
[Trường hợp 16]
Ngày 9/4/1976 một đứa bé 3 tuổi đến khám vì bị “ma chẩn-sốt sởi” nên quấy khóc ban đêm không thể ngủ được, đã điều trị 1 tuần trước đó ở bệnh viện, Tây y cho tiêm chlorpromazine hydrochloride, ngủ li bì 24 tiếng sau khi tiêm. Sau khi tỉnh dậy lại quấy khóc liên tục 2 ngày không ngủ nên đưa bé qua khám chỗ tôi. Khám: tinh thần đứa trẻ tương đối mệt mỏi, có tình trạng phiền táo bất an, kêu khóc không ngừng, trên da có các mảng sắc tố sau khi mắc sởi, trông giống như vảy tiết, khát nước, hay uống, mạch Hư Sác, rêu lưỡi hơi vàng mà can táo, cơ bụng nhu nhuyễn, trán và tay chân hơi nóng, nhiệt độ cơ thể là 38.3 độ, đại tiện vàng sẫm mà nát, không miệng đỏ thẫm, chứng này là do tà nhiệt sau khi mắc bệnh sởi chưa được trừ sạch, làm tổn thương đến khí dịch nên vậy, đáng dùng thanh nhiệt sinh tân, ích khí hoà Vị. Cho dùng Trúc diệp Thạch cao thang 2 tễ, sau khi uống thuốc đến đêm đã có thể ngủ ngon, nhiệt độ cũng giảm về bình thường, các chứng hư phiền, cũng theo đó mà biến mất, 2 tháng sau gặp lại người nhà thì biết bé giờ hoàn toàn khoẻ mạnh.
[Trường hợp 17]
Ngư dân nam 70 tuổi, đến khám ngày 23/8/1975 vì vài tháng gần đây cứ 2 ngày lại phát 1 cơn sợ lạnh, sau đó toàn thân và củng mạc chuyển vàng, có phúc thuỷ, can dưới bờ sườn 3 ngón tay, mật độ cứng, xét nghiệm đều bình thường, Tây y chưa thể chẩn đoán, người nhà thấy vậy chuyển qua Trung y điều trị. Mạch 2 bộ quan Huyền, 2 bộ xích Trầm Tế vô lực, hữu xích bị nặng hơn, rêu lưỡi trắng dính, vùng giữa lưỡi hơi vàng, miệng đắng, hoa mắt, hàn nhiệt vãng lai như ngược trạng, ố hàn, không muốn ăn, uống nước vào là nôn, hoàng đản sắc sạm, tiểu tiện bất lợi, sắc vàng, đại tiện bí kết, 3-4 ngày 1 lần, phúc chẩn, hung hiếp cực kì khẩn trương trướng mãn khổ muộn, ấn vào có đề kháng, bệnh nhân có cảm giác nghẹn thở, nhiệt độ cơ thể 37,3 độ, đó là chứng thấp nhiệt uất trệ thiếu dương, phép trị là hoà giải thiếu dương, hoá thấp lợi thuỷ, tiêu đản thanh nhiệt, đáng dùng Tiểu sài hồ thang và Nhân trần Ngũ linh tán hợp tễ, dùng 3 tễ, sau đó các chứng trạng đều giảm bớt, tinh thần phấn chấn, sau đó gia giảm phương trên dùng thêm 3 tễ, bệnh khỏi, theo dõi 1 năm, người vẫn khoẻ mạnh.
[Trường hợp 18]
Bé gái 6 tuổi sau khi bị sỏi thì ho không ngừng, Tây y chẩn đoán là bách nhật khái, uống thuốc hơn 1 tháng không hiệu quả, chuyển sang tôi điều trị. Khi khám thấy mạch rất Trầm Tế, lưỡi trắng, chảy nước mũi trong, không có mồ hôi, sáng dậy mặt mắt phù thũng, ho hắng luôn mồm, có khi ho kịch liệt, môi miệng phát tím, nhiệt độ là 37,5 độ, chứng thuộc phong hàn lạc biểu, thuỷ khí nội đình, dùng Tiểu thanh long thang giải biểu hoá ẩm, hoá đàm chỉ khái, sau 1 tễ ho giảm nhiều, sau 3 tễ bệnh khỏi. Nửa tháng sau do ăn “thực sinh lạt thái-gỏi sống chấm ớt cay?” lại ho hắng tái phát, người nhà cho dùng nguyên phương 2 tễ mà bệnh được yên, sau đó cũng không tái phát. Phương tôi dùng khi đó là Sinh ma hoàng 1 tiền, Bạch thược nửa tiền, Tế tân 6 phân, Can khương 1 tiền, Cam thảo 1 tiền, Quế chi 1 tiền, Bán hạ 2 tiền, Ngũ vị 8 phần.
[Trường hợp 19]
Ngày 20/8/1976, một bệnh nhân nữ 24 tuổi đến khám vì viêm bể thận hơn 2 năm, bệnh thường tái phát, cho đến nay vẫn chưa có thai. Khám: mạch Sáp, môi lưỡi sắc tím, sắc mặt vàng úa, đau nhức eo lưng, người mệt muốn nằm, ăn kém, tiểu tiện bất lợi, tiểu khung bên trái ấn vào đau, có đề kháng của “thũng khối”, nhưng không cấp kết, đại tiện bình thường, kinh nguyệt không đúng kỳ, sắc kinh tối, có huyết khối. Chẩn đoán là ứ huyết đình trệ gây hại, tôi cho dùng Quế chi Phục linh hoàn sắc uống, dựa theo phép hoạt huyết hoá ứ để điều trị, sau 3 tễ, các chứng có giảm, tinh thần cũng dần khôi phục, sau vài tháng thì có thai, gia đình hạnh phúc.
[Trường hợp 20]
Nữ 24 tuổi, đến khám vì thống kinh, đã kết hôn 3 năm mà chưa có thai. Trước khi hành kinh thì vùng tiểu phúc có 6/9 điểm đau, điều trị nhiều nơi không hiệu quả, vô cùng ảo não, khi đến tôi khám thì vừa sạch kinh được 1 tuần, khám thấy mạch 2 bộ xích Phù Nhược, trầm án không thấy mạch, gốc lưỡi rêu trắng dính, chất lưỡi nhợt, sắc mặt có hơi thiếu máu, eo lưng, 2 gối và mắt cá chân đau nhức, tiểu phúc vô lực, có cảm giác không thoải mái. Chứng này là thuộc Thận dương bất túc, cho dùng Kim quỹ Thận khí hoàn sắc uống, dặn uống cho đến khi có kì kinh tới thì dừng. Bệnh nhân dùng thuốc liên tục 15 tễ, sau đó hành kinh không có đau bụng, về sau đã có thai.
[Trường hợp 21]
Nữ 25 tuổi, khám ngày 6/5/1076. Sản hậu được nửa tháng mà tiểu phúc vẫn đau, ác lộ lâm ly, mạch Trầm Tế, lưỡi nhợt, sắc mặt trắng nhợt, chóng mặt, cơ cẳng chân co rút, tự cảm giác sợ lạnh, 2 cơ thẳng bụng co rút, ấn vào không thoải mái. Chứng thuộc sản hậu doanh khí đều hư, cho dùng Đương quy Kiến trung thang để bổ huyết ôn trung, hoãn cấp chỉ thống, sau 1 tễ có hiệu quả, 3 tễ bệnh khỏi.
[Trường hợp 22]
Nữ 24 tuổi, khám ngày 15/5/1976, là vợ tác giả, có thai được gần 4 tháng thì thấy toàn bụng trướng đau, trong Vị tào tạp, đại tiện bí kết, sôi ruột không ngừng, nửa đêm càng nặng, mất ngủ, tâm phiền, mạch Nhu, lưỡi đỏ rêu trắng, nhiệt độ 38 độ, chẩn là đàm nhiệt kết hỗ ở tâm hạ, lại kiêm có hạ tiêu súc huyết, pháp trị nên là thanh nhiệt điều đàm, khai kết, phá huyết, hạ ứ, cho dùng Tiểu hãm hung thang và Đào hạch thừa khí thang để trị. Nhưng lo lắng cho thai nhi, sợ thuốc quá mạnh, nên trì hoãn chưa dùng, sau đó bệnh ngày một nặng, đến mức nằm trên giường mà không thể dậy, xem xét kĩ cổ nhân có dạy “hữu cố vô vẫn?” do đó mạnh dạn cho dùng (Bán hạ 3 tiền, Lâu nhân sao 4 tiền, Xuyên liên nửa tiền, , Đào nhân 3 tiền, Quế chi 2 tiền, Đại hoàng 2 tiền, Cam thảo nửa tiền, Huyền hồ phấn 3 tiền hoà uống), sau khi uống thuốc được 3 tiếng, đi ngoài ra một lượng lớn uế vật, các chứng nhanh chóng giảm nhiều, hôm sau uống tiếp 1 tễ, bệnh khỏi.
Thông qua trường hợp này, tôi cảm thấy bệnh phụ khoa thường dẫn đến chứng trạng toàn thân, mà chứng trạng toàn thân cũng thường dẫn đến bệnh phụ khoa, rắc rối phức tạp, hỗ kết lại thành nhân quả, trên lâm sàng, cần phải tập trung vào chủ chứng, chủ chứng được trị thì các chứng khác cũng tự khỏi
[Trường hợp 23]
Lý 25 tuổi, bị đau eo lưng 2 tháng nay, điều trị nhiều nơi không hiệu quả, nên đến khám. Mạch thấy Trầm Trì, rêu lưỡi trắng, cơ thẳng bụng co cứng, tự cảm thấy vùng eo lưng hàn lạnh, đau đớn trầm trọng, chuyển động bất tiện, 2 chi dưới đều đau nhức vô lực, có cảm giác tê dại, 2 khớp gối càng nặng. Chứng thuộc thuỷ thấp đình trệ ở “thận chi ngoại phủ”, cho dùng Linh Khương Truật Cam thang, kiện tỳ lợi thuỷ, ôn trung tán hàn, 1 tễ có hiệu quả, 3 tễ hết đau, hành động như thường.
[Trường hợp 24]
Bệnh nhân 23 tuổi, khám ngày 30/8/1974 vì eo lưng đùi bên phải đau, đi lại khó khăn, 3 tháng nay bệnh ngày càng tăng nặng, điều trị nhiều nơi không hiệu quả, có người giới thiệu lên Thượng Hải điều trị. Sau đó lại được 1 bác sĩ giới thiệu qua chỗ tôi khám. Khám thấy chứng của kinh Thiếu dương Đởm và Thái dương Bàng quang đồng thời phát tác, ấn vào Thứ liêu và Hoàn khiêu, Phụ dương thì đau tăng kịch, mạch Trầm Khẩn, rêu trắng dầy dính, chán ăn, đại tiện nát, khuôn nhỏ, ngày đi 3-4 lần, thường có cảm giác sợ lạnh. Do bệnh tình như vậy, lại ngày một tăng nặng nên dẫn đến mất ngủ. Khám bụng thấy 2 cơ thẳng bụng co cứng, đặc biệt bên phải nặng hơn, biết là doanh vệ đều hư, cơ nhục không được nuôi dưỡng nên co rút. Cho dùng Thược dược Cam thảo Phụ tử thang 3 tễ, lập tức có hiệu quả, dùng 10 tễ, bệnh giảm được quá nửa, sau đó châm cứu phối hợp để tiếp cận từ 2 huống, sau 2 tháng bệnh khỏi hoàn toàn. Hai năm nay tham gia lao động mà không có khó chịu gì khác.
[Trường hợp 25]
Bệnh nhân 60 tuổi khám ngày 10/9/1974. Bệnh nhân có đau eo lưng đùi đã 3 tháng, từng điều trị nhiều cách mà không có hiệu quả, gần đây đau đớn kịch liệt, không thể đứng dậy, mời tôi đến khám. Chứng biểu hiện da vùng cẳng chân phải tím, hơi có hiện tượng teo, sờ thấy giá lạnh, toàn chân đau như kim chích, nghiệm pháp Laseque dương tính, mạch Trầm Trì, tâm hạ bĩ kiên, cơ thẳng bụng bên phải co cứng, lại có tình trạng ấn đau, vùng lưng thường cảm giác sợ lạnh, ho có đờm, đờm trắng lượng nhiều, tiểu tiện lượng ít, cho là chứng thuộc Dương hư thể nhược, hàn thấp nội thấm. Cho dùng Phụ tử thang ôn kinh trợ dương, khứ hàn hoá thấp, lại phối với châm cứu điều trị, 10 tễ mà khỏi, đến nay 3 năm, chưa hề tái phát.
[Trường hợp 26]
Bệnh nhân 51 tuổi, khám ngày 4/7/1975, bị đau khớp vai phải, điều trị bằng nhiều phương pháp nửa năm nay mà không hiệu quả, kết quả ngày càng ác hoá. Hiện tại tay phải không thể giơ lên được, vai và cổ cứng khi quay đầu, đầu không thể tự do hoạt động, Thiên tông ấn vào rất đau, cảm giác chạy đọc đến mặt sau của chi trên (tương đương với đường đi của thần kinh trụ), ấn vào huyệt Khuyết bồn cảm giác đau đến tận chi trên, ấn vào cơ nhị đầu cảm giác đau đớn kịch liệt, cơ cnash tay bị teo, nếu va đụng phải vật cứng thì rất đau, chỉ nhấc kéo được tầm 5kg. Đây là trường hợp nặng nhất trong chứng “Ngũ thập kiên” mà tôi từng gặp. Mạch Sáp, chất lưỡi đỏ sẫm, rêu vùng gốc lưỡi vàng dầy dính, tâm hạ bĩ ngạnh ấn vào đau kịch liệt, thiếu phúc bên trái cấp kết (có thể sờ thấy như một đoạn dây chạy dọc xuống theo hố chậu trái, tồn tại gần bề mặt bụng, ấn vào có đề kháng và đau đớn cấp bách), tiện bí, phân vàng, ngắn, đầu nặng như đeo đá, miệng đắng, ăn kém, nửa đêm đau mà không thể ngủ được, chứng này là đàm nhiệt hỗ kết, tôi cho dùng Tiểu hãm hung thang và Đào hạch thừa khí thang hợp phương, dùng 3 tễ, đi ngoài ra lượng lớn uế vật màu đen, sau đó toàn thân thấy dễ chịu. Bệnh nhân nói, 3 liều này còn tốt hơn cả 100 liều uống trước đó, vai tay đã có thể giơ cao hơn 10 phân, bụng dưới cấp kết và tâm hạ bĩ thống cũng giảm nhiều. Phúc chứng cũng thấy nhẹ hơn trước, tôi cho dùng nguyên phương trên nhưng liều giảm còn nửa, dùng 5 tễ, phúc chứng hoàn toàn biến mất, ngoài tình trạng cục bộ vai tay phải hoạt động chưa thuận lợi, thì các chứng trạng toàn thân đã biến mất. Sau đó tôi cho dùng Cát căn thang gia Ý dĩ nhân và Nhĩ châm (Giao cảm, Thần môn, Thượng tí kiên), điều trị liên tục 1 tháng mà bệnh khỏi. Sau nửa năm theo dõi, mặt hồng nhuận, đã có thể tham gia nhiều hoạt động thể chất có lợi cho sức khoẻ.
Những trường hợp nêu trên tôi thấy đều có quan hệ biện chứng giữa tổng thể với cục bộ, trừ những trường hợp cá biệt thì bệnh cục bộ nên bắt đầu dựa theo cái tổng thể mà điều chỉnh, khi bệnh tổng thể đã ổn định thì bệnh ở cục bộ cũng có thể khỏi theo tương ứng.
Đăng nhận xét